TẠP CHÍ TRI THỨC XANH - CƠ QUAN LÝ LUẬN CỦA VIỆN KHOA HỌC MÔI TRƯỜNG VÀ XÃ HỘI

E-mail:info@ttxonline.vn -  Hotline: 0948565689
thứ tư, 30/10/2024

Báo cáo an sinh xã hội thế giới - hệ thống an sinh xã hội trước ngã ba đường (kỳ 2)

14:12 18/10/2021
Logo header Tính đến năm 2020, toàn thế giới chỉ có 46,9% dân số được hưởng từ một chế độ, chính sách an sinh xã hội trở lên trên thực tế trong khi 53,1% còn lại - khoảng 4,1 tỷ người - hoàn toàn không được hưởng bất cứ một chế độ, chính sách an sinh xã hội nào.

Kỳ 2: Tình hình an sinh xã hội: Có tiến triển, nhưng chưa đạt kỳ vọng

1. Tình hình chung của hệ thống an sinh xã hội

Bên cạnh mức trung bình toàn cầu, giữa các khu vực và nội trong các khu vực trên thế giới cũng có sự chênh lệch đáng kể: độ bao phủ an sinh xã hội ở Châu Âu và Trung Á (83,9%) và Châu Mỹ (64,3%) cao hơn nhiều so với mức trung bình toàn cầu, trong khi độ bao phủ tại Châu Á - Thái Bình Dương (44,1%), các quốc gia Ả Rập (40,0%) và Châu Phi (17,4%) thấp hơn đáng kể so với mức trung bình toàn cầu.

Đối với diện bao phủ pháp lý, đến nay chỉ có 30,6% dân số toàn cầu được bao phủ trong diện đối tượng áp dụng của hệ thống an sinh xã hội đầy đủ các chế độ, bao gồm từ chế độ trợ cấp trẻ em và hộ gia đình đến chế độ hưu trí cho người cao tuổi. Đáng chú ý là độ bao phủ của phụ nữ thấp hơn 8 điểm phần trăm so với nam giới. Điều này ngụ ý rằng phần lớn dân số toàn cầu - 69,4%, hay 5,4 tỷ người - chỉ được đảm bảo an sinh một phần hoặc hoàn toàn không được đảm bảo an sinh.

 Mặc dù hiện nay trên toàn cầu có gần 2/3 dân số được bao phủ chăm sóc y tế nhưng vẫn còn nhiều khoảng trống lớn, bao gồm cả về mức hưởng. Diện bao phủ và mức hưởng đảm bảo an ninh thu nhập khi ốm đau và thất nghiệp còn đáng quan ngại hơn. Hiện nay toàn thế giới có chưa đến 1/3 người trong độ tuổi lao động được quy định trong diện đối tượng áp dụng của chế độ trợ cấp ốm đau, trong khi chưa đến 1/5 người lao động mất việc làm được hưởng trợ cấp thất nghiệp trên thực tế.

Các hạn chế về diện bao phủ đối tượng tham gia, số lượng các chế độ, chính sách được bao phủ, và quyền lợi của từng chế độ, chính sách bắt nguồn từ việc thiếu đầu tư nghiêm trọng cho an sinh xã hội, đặc biệt là tại các quốc gia khu vực châu Phi, Ả Rập và châu Á. Tại các khu vực này, các quốc gia đầu tư trung bình khoảng 12,9% GDP cho an sinhxã hội (không bao gồm chăm sóc y tế). Tuy nhiên, mức đầu tư có sự chênh lệch lớn giữa các quốc gia. Cụ thể: các nước thu nhập cao chi tiêu trung bình 16,4%, GDP cho an sinh xã hội, gấp đôi so với các nước có thu nhập trung bình cao (8%), gấp 6 lần so với các nước thu nhập trung bình thấp (2,5%) và gấp 15 lần so với các nước thu nhập thấp (1,1%).

 Từ khi bùng phát đạt dịch COVID-19, mức độ thiếu hụt nguồn lực tài chính cho sàn an sinh xã hội đã tăng thêm khoảng 30%, do nhu cầu gia tăng đối với các dịch vụ chăm sóc y tế và đảm bảo an ninh thu nhập, đi đôi với sụt giảm về GDP do tác động tiêu cực về kinh tế - xã hội từ đại dịch. Để đảm bảo tối thiểu là một mức an sinh xã hội cơ bản cho người dân thông qua sàn an sinh xã hội theo tiêu chuẩn quốc gia, các nước thu nhập trung bình cao sẽ cần đầu tư thêm khoảng 750,8 tỷ USD mỗi năm (tương đương 3,1% GDP), các nước thu nhập trung bình thấp sẽ cần đầu tư thêm khoảng 362,9 tỷ USD mỗi năm (tương đương 5,15% GDP), trong khi các nước thu nhập thấp sẽ cần đầu tư thêm khoảng 77,9 tỷ USD (tương đương 15,9% GDP).

2. Chế độ an sinh xã hội cho trẻ em còn hạn chế, nhưng có nhiều dư địa để cải thiện

 Một số nét chính

Trên thực tế, phần lớn trẻ em chưa được hưởng các chế độ an sinh xã hội. Đến nay, trên toàn cầu mới chỉ có 26,4 % trẻ được hưởng trợ cấp an sinh xã hội. Độ bao phủ thực tế đặc biệt thấp ở một số khu vực: 18% ở Châu Á - Thái Bình Dương, 15,4% ở các quốc gia Ả Rập, và 12,6% ở Châu Phi.

 Một số tiến triển được ghi nhận gần đây bao gồm chế độ trợ cấp trẻ em và hộ gia đình đã được triển khai phổ cập bao phủ hoặc xấp xỉ phổ cập bao phủ tại một số quốc gia. Bên cạnh đó, đại dịch COVID-19 khiến toàn thế giới nhận thức rõ hơn về tầm quan trọng của việc cần xây dựng hệ thống an sinh xã hội bao trùm, các dịch vụ chăm sóc trẻ em có chất lượng và tiếp cận an sinh xã hội cho những người làm công việc chăm sóc không được trả lương.

Tính bình quân, mức chi tiêu đảm bảo an sinh xã hội cho trẻ em trên toàn cầu còn thấp, hiện nay chỉ vào khoảng 1,1% GDP so với 7% GDP cho chế độ hưu trí. Các khu vực có tỷ lệ trẻ em trên tổng dân số cao nhất và có nhu cầu an sinh xã hội lớn nhất lại thường có độ bao phủ và mức chi tiêu an sinh xã hội cho trẻ em thấp nhất, đặc biệt là khu vực châu Phi cận Saharah (0,4% GDP).

Để giải quyết việc gia tăng đáng kể tình trạng nghèo ở trẻ em phát sinh từ đại dịch COVID-19, để thu hẹp khoảng trống bao phủ an sinh xã hội cho trẻ em, và để đảm bảo lợi ích tốt nhất cho trẻ em và toàn xã hội, các nhà hoạch định chính sách cần thiết kế hệ thống an sinh xã hội theo hướng tích hợp hiệu quả chế độ trợ cấp trẻ em, các dịch vụ chăm sóc trẻ em, chế độ thai sản (bao gồm cả cho cha và mẹ), và chế độ chăm sóc y tế.

3. Các chế độ an sinh xã hội cho phụ nữ và nam giới trong độ tuổi lao động hiện chưa bảo vệ đầy đủ cho họ trước các rủi ro chính

Một số nét chính

Chế độ thai sản: Một số quốc gia đã có tiến triển rõ rệt về phổ cập bao phủ hoặc đạt xấp xỉ phổ cập bao phủ chế độ thai sản trên thực tế. Tuy nhiên, bất kể các tác động tích cực trong lĩnh vực phát triển nhằm hỗ trợ phụ nữ thai sản, đến nay trên toàn thế giới mới chỉ có 44,9% bà mẹ trẻ sơ sinh được nhận trợ cấp thai sản bằng tiền mặt.

 Chế độ ốm đau: Đại dịch COVID-19 cho thấy rõ tầm quan trọng của việc đảm bảo an ninh thu nhập trong trường hợp sức khoẻ suy giảm, bao gồm cả trong thời gian cách ly. Tuy nhiên, xét về diện đối tượng áp dụng theo luật định, đến nay trên toàn thế giới mới chỉ có 1/3 dân số trong độ tuổi lao động được pháp luật đảm bảo an ninh thu nhập trong trường hợp ốm đau.

Chế độ trợ cấp khuyết tật: Tỷ lệ người khuyết tật nặng trên toàn thế giới được nhận trợ cấp khuyết tật còn thấp, chỉ khoảng 33,5%. Tuy nhiên, một tín hiệu tích cực là hiện nay một số quốc gia đã áp dụng phổ cập bao phủ đối với chế độ trợ cấp khuyết tật.

 Chế độ tai nạn lao động: Đến nay chỉ mới có 35,4% lực lượng lao động trên toàn thế giới được hưởng trợ cấp tai nạn lao động trên thực tế. Nhiều quốc gia đã công nhận việc nhiễm COVID-19 là tai nạn lao động để tạo điều kiện cho người lao động được hưởng bảo hiểm tai nạn lao động nhanh chóng và dễ dàng hơn, đặc biệt là đối với người lao động trong các ngành có nguy cơ cao.

Chế độ trợ cấp thất nghiệp: Đến nay mới chỉ có 18,6% người lao động mất việc làm trên toàn thế giới được hưởng trợ cấp thất nghiệp trên thực tế. Đây là chế độ có ít tiến triển nhất.

Số liệu ước tính về chi tiêu cho thấy, tổng chi tiêu trên toàn cầu cho các chế độ an sinh xã hội để đảm bảo an ninh thu nhập cho người trong độ tuổi lao động hiện nay chỉ vào khoảng 3,6% GDP.

4. Còn nhiều hạn chế về diện bao phủ và mức hưởng đối với chế độ an sinh xã hội dành cho người cao tuổi

Một số nét chính

 Hiện nay có khoảng 77,5% người trong độ tuổi hưu trí trên toàn thế giới được hưởng chế độ hưu trí. Tuy nhiên, chế độ hưu trí còn có sự khác biệt lớn giữa các khu vực, giữa thành thị và nông thôn, giữa nam giới và phụ nữ. Mức chi tiêu bình quân trên toàn thế giới cho chế độ hưu trí và các chế độ an sinh xã hội khác cho người cao tuổi hiện nay vào khoảng 7,0% GDP, tuy nhiên vẫn có sự chênh lệch lớn giữa các khu vực.

Các quốc gia đang phát triển đã có nhiều tiến triển ấn tượng trong việc mở rộng bao phủ chế độ hưu trí. Mặc dù đại dịch COVID-19 làm gia tăng áp lực về chi phí và nguồn tài chính cho chế độ hưu trí, nhưng tác động trong dài hạn tương đối khiêm tốn, hoặc thậm chí không đáng kể. Hành động ứng phó quyết liệt trước đại dịch ở nhiều quốc gia cho thấy tầm quan trọng thiết yếu của hệ thống an sinh xã hội cho người cao tuổi, trong đó bao gồm cả chế độ chăm sóc sức khoẻ dài hạn để bảo vệ người cao tuổi, đặc biệt là trong đại dịch, cũng như việc cần cấp thiết củng cố hệ thống chăm sóc sức khoẻ dài hạn để bảo vệ quyền của những người được chăm sóc, phụng dưỡng và cả những người làm công việc chăm sóc, phụng dưỡng.

5. Bảo vệ sức khỏe xã hội: góp phần quan trọng nhằm đạt bao phủ chăm sóc sức khỏe toàn dân

Một số nét chính

Lĩnh vực bảo vệ sức khoẻ xã hội đã đạt được nhiều tiến triển ấn tượng về tăng độ bao phủ, cụ thể là gần 2/3 dân số toàn cầu được bao phủ bởi ít nhất một chương trình bảo vệ sức khoẻ xã hội. Tuy nhiên, hiện vẫn tồn tại một số rào cản làm hạn chế khả năng tiếp cận dịch vụ chăm sóc y tế.

Cơ chế tài chính tập thể, mở rộng phạm vi chia sẻ rủi ro, và nguyên tắc coi quyền được chăm sóc y tế là quyền con người là các điều kiện tiên quyết cần đảm bảo để có một hệ thống chăm sóc y tế hiệu quả cho toàn dân, ứng phó tốt trước các cú sốc. Trong bối cảnh y tế công hiện nay, cần nỗ lực hơn bao giờ hết tuân thủ các nguyên tắc được xây dựng căn cứ trên các tiêu chuẩn quốc tế về an sinh xã hội nhằm đảo bảo đạt mục tiêu bao phủ chăm sóc sức khoẻ toàn dân. Các quốc gia cần chú trọng tăng cường thu nhập dữ liệu đầy đủ hơn và có chất lượng tốt hơn về diện đối tượng áp dụng theo luật định để theo dõi tiến độ mở rộng diện bao phủ trên thực tế và mức độ bình đẳng trong lĩnh vực bảo vệ sức khoẻ xã hội.

Điều cấp thiết cần làm là đầu tư nâng cao năng lực dịch vụ chăm sóc y tế. Đại dịch COVID-19 nhấn mạnh sự cần thiết phải đầu tư cho dịch vụ chăm sóc y tế và cải thiện cơ chế phối hợp giữa các bên liên quan trong hệ thống y tế.

Cần có sự phối hợp tốt hơn giữa các cơ chế tăng cường tiếp cận dịch vụ chăm sóc y tế và cơ chế đảm bảo an ninh thu nhập để giải quyết các vấn đề tồn tại trong lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ xã hội một cách hiệu quả hơn.

6. Một số giải pháp nâng cao chất lượng an sinh xã hội

Cần tiếp tục duy trì các biện pháp an sinh xã hội áp dụng từ trong đại dịch cho đến khi đại dịch đã được kiểm soát và quá trình phục hồi đã đi vào quỹ đạo. Cụ thể, các quốc gia cần tiếp tục đầu tư cho an sinh xã hội để giúp người dân duy trì chất lượng cuộc sống, đảm bảo người dân được tiếp cận bình đẳng với vắc xin và các dịch vụ chăm sóc y tế, và ngăn ngừa nguy cơ suy thoái kinh tế sâu hơn. Đảm bảo khả năng tiếp cận vắc xin một cách bình đẳng và kịp thời là điều thiết yếu để đảm bảo sức khoẻ xã hội và sự thịnh vượng cho mọi quốc gia - dân tộc. Trong một thế giới ngày càng kết nối cao độ, sự phục hồi muốn đảm bảo tính bao trùm phụ thuộc hoàn toàn vào điều này.

Các quốc gia cần tránh áp dụng chính sách thắt chặt tài khoá để bù đắp cho các khoản chi tiêu công khổng lồ cho ứng phó với đại dịch COVID-19 trong thời gian qua. Kinh nghiệm quốc tế từ các đợt khủng hoảng trước đây cho thấy việc thắt chặt chi tiêu công để lại nhiều tác động xã hội tiêu cực và lâu dài. Ngược lại, nếu quá trình phục hồi sau đại dịch tập trung theo hướng tạo việc làm, đảm bảo quyền con người, thống nhất các mục tiêu về y tế, xã hội, môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, thì có thể góp phần tăng cường an ninh thu nhập, đem lại nhiều việc làm tốt, củng cố tinh thần tương trợ xã hội, mở rộng cơ sở thuế, đồng thời tạo thêm dư địa tài chính để thực hiện mục tiêu bao phủ an sinh xã hội toàn dân.

Bất kể sức tàn phá và thiệt hại nghiêm trọng từ đại dịch, đâu đó vẫn ánh lên những tia hy vọng về sự chuyển đổi trong tư duy. Khi làm sáng tỏ thực tế rằng bất cứ ai cũng có thể bị tổn thương, đại dịch khiến người dân trên toàn thế giới nhận thức rõ rằng sức khoẻ và hạnh phúc của mỗi con người có liên quan mật thiết đến sức khoẻ, hạnh phúc và sự an toàn của tất cả những con người khác. Nói cách khác, đại dịch đã cho thấy tầm quan trọng không thể phủ nhận của an sinh xã hội. Bên cạnh đó, đại dịch chứng minh rằng nhiều quốc gia vẫn còn rất nhiều dư địa để bằng mọi cách thực hiện được mục tiêu ưu tiên nếu thực sự quyết tâm. Nếu các quốc gia vẫn áp dụng hướng tiếp cận này ngay cả sau khi thời kỳ bùng phát nghiêm trọng nhất của đại dịch đã qua đi thì hoàn toàn có hy vọng về việc triển khai lộ trình cao để hoàn thành các Mục tiêu Phát triển bền vững và tiến tới bao phủ an sinh xã hội toàn dân.

 Để thực hiện lộ trình cao về an sinh xã hội, các quốc gia cần xây dựng hệ thống an sinh xã hội vững chắc, dựa trên nguyên tắc ba bên, đảm bảo bao phủ cho mọi nhóm đối tượng dân cư và với mức hưởng thoả đáng. Hệ thống an sinh xã hội có vai trò quan trọng thiết yếu đối với công tác giảm nghèo, giảm thiểu bất bình đẳng, giải quyết các thách thức trong hiện tại và cả trong tương lai, trong đó bao gồm thúc đẩy việc làm thoả đáng, hỗ trợ phụ nữ và nam giới vươt qua những giai đoạn quá độ trong cuộc sống và công việc, hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động dịch chuyển sang khu vực kinh tế chính thức, thúc đẩy quá trình chuyển đổi về cơ cấu trong các nền kinh tế, đồng thời hỗ trợ các quốc gia phát triển theo hướng bền vững hơn với môi trường.

Các quốc gia cần tăng cường đầu tư cho an sinh xã hội ngay từ bây giờ. Đặc biệt, các quốc gia cần ưu tiên đầu tư cho sàn an sinh xã hội theo tiêu chuẩn quốc gia, từ đó góp phần thực hiện Chương trình nghị sự về Phát triển bền vững đến năm 2030. Đại dịch cho thấy ngay cả những nước nghèo nhất vẫn còn dư địa tài khoá, và cần huy động nguồn lực trong nước làm nguồn lực chủ đạo. Bên cạnh đó, nguồn tài trợ quốc tế có thể góp phần quan trọng nhằm đẩy nhanh tiến độ triển khai tại các quốc gia thiếu dư địa tài khoá và năng lực kinh tế, đặc biệt là các quốc gia thu nhập thấp thiếu đầu tư nghiêm trọng cho an sinh xã hội.

 Các cơ quan thuộc hệ thống của Liên hợp quốc cùng phối hợp như một thể thống nhất để hỗ trợ các quốc gia hoàn thành mục tiêu bao phủ an sinh xã hội toàn dân, kết hợp với nguồn hỗ trợ từ các tổ chức quốc tế, các tổ chức trong khu vực, các tổ chức trong nước, các đối tác xã hội, các tổ chức xã hội dân sự và các bên liên quan khác thông qua Mạng lưới đối tác toàn cầu về bao phủ an sinh xã hội toàn dân.

Các quốc gia có thể tận dụng dư địa chính sách có một không hai được hé mở từ trong đại dịch COVID-19 để triển khai hành động quyết liệt ngay từ bây giờ, quyết tâm theo đuổi lộ trình cao vì một hệ thống an sinh xã hội vững mạnh hơn trong tương lai. Theo cách này, các quốc gia sẽ được tiếp thêm sức mạnh để ứng phó tốt hơn trước các cuộc khủng hoảng trong tương lai, có thể phát sinh từ biến động về nhân khẩu học, thế giới việc làm, di cư, khủng hoảng môi trường, hay biến đổi khí hậu. Một hệ thống an sinh xã hội vững mạnh sẽ giúp củng cố lại khế ước xã hội, góp phần chuyển dịch xã hội theo hướng công bằng hơn cho tất cả mọi người trong tương lai.

Bùi Hơn/Tri thức Xanh số 79-21

Bình luận: 0