TẠP CHÍ TRI THỨC XANH - CƠ QUAN LÝ LUẬN CỦA VIỆN KHOA HỌC MÔI TRƯỜNG VÀ XÃ HỘI

E-mail:info@ttxonline.vn -  Hotline: 0948565689
thứ tư, 30/10/2024

Xu hướng thương mại điện tử xuyên biên giới cơ hội khởi nghiệp từ thương mại điện tử và Logistics

15:53 09/10/2021
Logo header Tóm tắt: Sự thay đổi của toàn thế giới trong thời gian qua, các xu hướng kinh doanh thương mại điện tử từ các nước phương Tây đang hướng sang khu vực châu Á, trong đó Việt Nam là một trong những lựa chọn hàng đầu (quy mô thị trường thương mại điện tử bán lẻ của Việt Nam năm 2018 ước tính đạt 8,06 tỉ USD, tăng 30% so với năm 2017). Nhận ra tiềm năng, lợi ích và giá trị thực của thương mại điện tử, tham luận thực hiện nghiên cứu về cơ hội khởi nghiệp từ thương mại điện tử và logistics thông qua các nhóm ngành liên quan đến thương mại điện tử và logistics đã và đang trở thành xu hướng tất yếu như: dịch vụ kho bãi, đại lí thương mại, giải pháp công nghệ… Kết quả tổng hợp cho thấy có nhiều bằng chứng chỉ ra lợi ích, giá trị, cơ hội và thách thức từ xu hướng thương mại điện tử xuyên biên giới mang lại cho các bên tham gia.

Từ khóa: Logistics; Thương mại điện tử; Kinh tế…

1. Đặt vấn đề

Nếu như TMĐT đang có tốc độ phát triển bùng nổ trên toàn thế giới, xấp xỉ 1,79 tỉ người mua sắm qua kênh TMĐT trong năm 2018, theo dự kiến của các tổ chức thì số người mua sắm qua kênh TMĐT tăng lên khoảng 2,14 tỉ người vào năm 2021. Dự báo quy mô doanh thu TMĐT trên toàn thế giới sẽ đạt khoảng 4.060 tỉ USD . Theo công bố của tập đoàn chuyển phát nhanh DHL, dự kiến đến năm 2020 tổng giao dịch TMĐT xuyên biên giới (Cross-Border eCommerce – CBE) sẽ đạt quy mô 900 tỉ USD, chiếm 22% tổng giao dịch TMĐT toàn cầu, đồng thời tốc độ tăng trưởng trung bình sẽ duy trì ở mức 25% hằng năm . Trong đó, Việt Nam là một trong những quốc gia có mức tăng trưởng TMĐT nhanh nhất thế giới với tốc độ 35% mỗi năm, thậm chí gấp 2,5 lần so với Nhật
Bản, doanh thu TMĐT Việt Nam đứng thứ 3 trong khu vực và dự báo sẽ đạt mức 15 tỉ USD vào năm 2025.

Với mức sống ngày một nâng cao, kéo theo hành vi tiêu dùng của người Việt ngày càng hiện đại, hướng đến chất lượng, người tiêu dùng Việt đã hướng thị hiếu đến các thị trường quốc tế để tìm kiếm các sản phẩm và dịch vụ tốt hơn từ các nhà cung cấp nước ngoài. Theo công bố Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số, người tiêu dùng Việt đã chi tiêu nhiều hơn khi mua sắm online, ước tính mỗi ngày có tới 1,5 triệu đơn hàng được xử lí, 186 USD (tương đương 4,3 triệu đồng) là số tiền trung bình người tiêu dùng Việt sử dụng cho mua hàng online năm 2017. Theo dự báo của Công ty Dữ liệu và Phân tích GlobalData , thị trường thương mại điện tử của Việt Nam được dự báo sẽ đạt 17,3 tỉ USD vào năm 2023, tăng mạnh so với mức 9,4 tỉ USD của năm 2019.

Với những lợi thế và ưu việt của kênh phân phối qua TMĐT nói chung và CBE nói riêng, các doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME), doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo là các đơn vị đang có sự tiếp cận và ứng dụng mạnh mẽ các nền tảng CBE, CBE đang dần là ưu tiên chiến lược và phát triển của mình

2. Hệ sinh thái phát triển thương mại điện tử xuyên biên giới

Quy mô doanh nghiệp trong ngành

Trong những năm qua, sự xuất hiện những “ông lớn” mới cả trong và ngoài nước, trẻ trung, năng động và áp dụng công nghệ vào giải quyết bài toán vận chuyển cho lĩnh vực đang tăng trưởng. Logistics cho thương mại điện tử đang nằm trong tay bốn nhóm chính gồm: (1) nhóm thứ nhất các công ti chuyên thương mại điện tử như Tiki, Lazada, Sendo, Shopee; (2) nhóm thứ hai là các doanh nghiệp lớn trong nước như VN Post, Viettel Post và các doanh nghiệp logistics nước ngoài như DHL, FedEx, TNT; (3) nhóm siêu ứng dụng như Grab, Go-Viet, nhóm tự vận chuyển như Tiki Express Delivery, Lazada Express và (4) nhóm còn
lại là các công ti Scommerce, Ninja Van, Giaohangtietkiem mới nổi. Vậy
làm thế nào để các doanh nghiệp cạnh tranh và chiếm lĩnh thị phần?

Quy mô thị trường thương mại điện tử

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê (2018), doanh thu bán lẻ của TMĐT
Việt Nam tăng trưởng 30%, đạt gần 8 tỉ USD (trước đó năm 2016, doanh thu bán
lẻ TMĐT ở mức 5 tỉ USD, tăng 20% và năm 2017 là 6,2 tỉ USD, tăng 24%). Về
quy mô, với điểm xuất phát thấp khoảng 4 tỉ USD vào năm 2015 nhưng nhờ tốc độ tăng trưởng trung bình trong ba năm liên tiếp cao nên quy mô thị trường TMĐT năm 2018 lên tới khoảng 7,8 tỉ USD. Kinh tế nền tảng, nhất là kinh tế chia sẻ, cũng nổi lên. Sự xuất hiện Uber, Grab, Go-Jek đã thay đổi cách thức vận hành của thị trường và hành vi người tiêu dùng. Taxi truyền thống cũng đã phát triển các nền tảng và ứng dụng di động để cạnh tranh với những đối thủ. Cùng với đó, trong lĩnh vực Fintech, Việt Nam có 48 công ti Fintech cung cấp dịch vụ thanh toán tiền gửi và tiền điện tử (2017). Công nghiệp quảng cáo  trực tuyến tăng trưởng nhanh; dự báo doanh thu năm 2020 tăng gấp ba lần so với năm 2016 (đã đạt 390 triệu đô la). Năm 2014, mạng xã hội vượt qua các công cụ tìm kiếm khác để trở thành phương tiện quảng cáo trực tuyến được các doanh nghiệp Việt Nam sử dụng nhiều nhất. Các dịch vụ OTT như Zalo, Skype và Viberm đang thay thế các dịch vụ gọi điện và gửi tin nhắn SMS truyền thống. Việt Nam đã trở thành một trong những thị trường lớn nhất cho các trò chơi trực tuyến Đông Nam Á .

Năm 2018, Việt Nam đứng thứ 25 trong tổng số 100 quốc gia về doanh thu trò chơi điện tử (490 triệu đô la so với 370 triệu đô la năm 2017).

Theo Báo cáo e-Conomy SEA 2018 của Google và Temasek, tốc độ tăng
trưởng trung bình năm của giai đoạn 2015 – 2018 là 25% và thị trường đạt 33 tỉ USD vào năm 2025. Nếu kết quả dự toán gần đúng, quy mô thị trường TMĐT Việt Nam năm 2025 đứng thứ ba ở Đông Nam, sau Indonesia (100 tỉ USD) và Thái Lan (43 tỉ USD)

Theo Báo cáo Chỉ số TMĐT năm 2019 của Hiệp hội Thương mại điện tử
Việt Nam (VECOM), nếu tốc độ tăng trưởng của năm 2019 và 2020 tiếp tục ở mức 30% thì tới năm 2020 quy mô TMĐT bán lẻ sẽ lên tới 13 tỉ USD, cao hơn so với mục tiêu nêu trong Kế hoạch tổng thể phát triển thương mại điện tử giai đoạn 2016-2020 (đạt 10 tỉ USD vào năm 2020) [15]. Trong khi đó, theo nhận định của Tổng cục Thống kê, dự kiến doanh thu bán lẻ TMĐT đến năm 2020 còn khả quan hơn, với khoảng 13-15 tỉ USD. Trong khi đó, nghiên cứu của Google và Quỹ đầu tư Temasek công bố tháng 11/2018 khẳng định, đến năm 2025, tốc độ tăng trưởng của ngành TMĐT Việt Nam lên tới 43%, cao nhất trong các nước Đông Nam Á.

3. Cơ hội khởi nghiệp với thương mại điện tử và logistics

Xét trong phạm vi TMĐT và logistics, chúng ta có thể nhận ra cơ hội đang đến với tất cả các loại hình doanh nghiệp, được phân thành năm nhóm sau:

Thứ nhất, nhóm các công ti TMĐT, đó là (1) phối hợp chặt chẽ với các công ti logistics nâng cao chất lượng dịch vụ; (2) mở rộng phạm vi, tổ chức kho bãi, trung tâm chia chọn – thực hiện đơn hàng.

Thứ hai, nhóm các nhà cung cấp dịch vụ logistics, đó là (1) quản lí dòng hàng cho các công ti TMĐT; (2) dùng TMĐT tổ chức các sàn giao dịch; (3) dịch vụ TMĐT xuyên biên giới; (4) tối ưu hóa vận tải; (5) tối ưu hóa không gian kho bãi.

Thứ ba, nhóm các nhà đại lí thương mại, phân phối, bán lẻ, đó là (1) phát triển kênh bán hàng trực tuyến; (2) chuyển đổi công năng kho bãi, trung tâm phân phối, cửa hàng hiện hữu; (3) lập mô hình kho bãi hiện đại, kinh doanh TMĐT.

Thứ tư, nhóm các nhà cung cấp giải pháp kĩ thuật – công nghệ, đó là (1) cung cấp hạ tầng thông tin: trung tâm dữ liệu; (2) cung cấp phần mềm, hệ thống quản lí như: WMS, ERP, TMS; (3) tích hợp các hệ thống kho, cảng; (4) cung cấp giải pháp trung tâm chia chọn – thực hiện đơn hàng; (5) phát triển các nền tảng logistics điện tử; (6) phát triển các ứng dụng trên nền tảng đã chạy.

Thứ năm, nhóm các nhà sản xuất và hộ kinh doanh, đó là (1) chuyển đổi cấu trúc chuỗi cung ứng; (2) thiết lập hệ thống đa kênh và (3) đối với nhóm hộ kinh doanh sử dụng các nền tảng và dịch vụ logistics để kinh doanh sản phẩm trực tuyến với phạm vi không giới hạn.

4. Thương mại điện tử xuyên biên giới – động lực, cơ hội và thách thức

TMĐT xuyên biên giới đang nhanh chóng trở thành nhân tố cốt lõi của nền kinh tế toàn cầu và là xu hướng tất yếu mà không một quốc gia nào có thể đứng ngoài cuộc. TMĐT giúp người tiêu dùng thông qua Internet để mua sắm tại các thị trường quốc tế và trở thành “người tiêu dùng toàn cầu”. Đồng thời, thông qua TMĐT, các cá nhân, doanh nghiệp dễ dàng hơn khi giới thiệu và giao sản phẩm của mình đến khách hàng quốc tế, đóng góp tích cực vào lĩnh vực xuất khẩu. Tuy nhiên, các doanh nghiệp nhỏ và vừa thường gặp phải nhiều thách thức về thông tin, dự báo thị trường, năng lực cạnh tranh, tìm kiếm khách hàng. Vì vậy, các doanh nghiệp cần nhận diện các động lực chính, cũng như cơ hội và thách thức nào để thúc đẩy CBE phát triển mạnh mẽ hơn nữa trong thời gian tới.

Về động lực

Một là, chi phí mua hàng thấp hơn cũng là một trong những động lực thúc đẩy xuất khẩu trực tuyến phát triển trong đó có CBE. Người tiêu dùng ngày càng trở nên thông thái trong việc đưa ra quyết định mua hàng, dựa vào lượng thông tin khổng lồ và các công cụ so sánh giá, đặc tính sản phẩm trực tuyến giúp người mua đưa ra các quyết định mua hàng sáng suốt.

Hai là, giảm chi phí tiếp cận thị trường mới của các doanh nghiệp sản xuất, phân phối. Tốc độ thúc đẩy sản phẩm mới ra thị trường quốc tế nhanh hơn với các công cụ marketing online và chi phí thấp hơn.

Ba là, các doanh nghiệp đang tìm cách xâm nhập các thị trường mới trong khi thị trường trong nước đã bão hòa thì CBE là một sự lựa chọn hợp lí nhất cho sự tăng tưởng trong tương lai.

Bốn là, CBE đang mang lại nhiều lợi ích đan xen vào nhiều mặt cho nền kinh tế cũng như doanh nghiệp. Ngoài việc tiếp cận thị trường mới, CBE còn giúp các doanh nghiệp tìm thấy nhau để liên kết và gia tăng giá trị sản phẩm, giảm sự lệ thuộc vào một thị trường nào đó.

Năm là, chính sách của Nhà nước và xu hướng phát triển kinh tế của các nền kinh tế cũng như các quốc gia có sự thay đổi dưới áp lực của toàn cầu hóa, các hiệp định thương mại song phương, đa phương… đã thúc đẩy và tạo cơ hội, hỗ trợ cho CBE phát triển.

Sáu là, CBE là cầu nối để các doanh nghiệp tham gia chuỗi giá trị toàn cầu, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Doanh nghiệp nhỏ và vừa có lợi thế về tính linh hoạt trong mô hình tổ chức hoạt động và khả năng sáng tạo, học tập cái mới, nhưng có thể còn hạn chế về vốn và năng lực nghiên cứu. Như việc chủ động trang bị kiến thức, đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu chuyển đổi số, mạnh dạn áp dụng các mô hình TMĐT mới, xây dựng uy tín, thương hiệu trên môi trường trực tuyến là ưu điểm nổi trội. Cùng với tốc độ phát triển của công nghệ và hạ tầng viễn thông, Internet, hoạt động kinh doanh và mua sắm trên môi trường mạng đang trở thành một phần tất yếu của đời sống xã hội.

Về cơ hội

Châu Á được dự oán sẽ đóng góp 40% tổng giá trị TMĐT xuyên biên giới vào năm 2025. Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia có mức tăng tưởng TMĐT cao nhất thế giới, với tốc độ bình quân đến 35% mỗi năm, gấp 2,5 lần so với Nhật Bản. Theo Tập đoàn Deutsche Post DHL, tổng giá trị giao dịch trực tuyến xuyên biên giới đạt 900 tỉ USD, chiếm 22% tổng giá trị thương mại điện tử toàn cầu vào năm 2020 .

Tham gia vào xuất khẩu trực tuyến qua kênh CBE, các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội cọ sát hoàn thiện sản phẩm, góp phần thúc đẩy tăng giá trị chất lượng hàng hóa Việt Nam trên thị trường quốc tế. Xuất khẩu trực tuyến qua nền tảng CBE là ưu thế của doanh nghiệp nhỏ và vừa như: có nhiều cơ hội tiếp cận tốt hơn với nhà nhập khẩu đã và đang trở nên thuận lợi hơn bao giờ hết đối với doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam. Doanh nghiệp nhỏ và vừa có lợi thế về tính linh hoạt, dễ áp dụng các mô hình quản trị mới, khả năng sáng tạo, học tập cái mới, tiếp cận nguồn vốn chuyên nghiệp sẽ giúp cho các doanh nghiệp SME dễ dàng tiếp cận CBE trong việc khai thác thị trường trực tuyến. Doanh nghiệp Việt có thể quảng bá sản phẩm tới 260 triệu doanh nghiệp mua hàng tại 240 quốc gia và vùng lãnh thổ trên toàn thế giới. Đây là mô hình B2B, kinh doanh giao dịch qua internet giúp kết nối các doanh nghiệp với nhau nhiều hơn.

Về thách thức

Xét về tổng thể, ngành TMĐT đã đem đến nhiều lợi thế cho các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận và sử dụng kênh CBE để xuất khẩu hàng hóa ra thị trường quốc tế. Tuy nhiên, các doanh nghiệp Việt Nam gặp phải những thách thức từ phía bên trong doanh nghiệp cần phải khắc phục vượt qua để có thể tiếp cận nhanh chóng và tăng trưởng mạnh mẽ hoạt động xuất khẩu thông qua kênh CBE. Những thách thức có thể nhận thấy gồm:

Một là, doanh nghiệp chưa đầu tư nghiêm túc cho kênh CBE, nhiều doanh nghiệp đã nhận thức và mong muốn thúc đẩy kinh doanh CBE nhưng chưa đầu tư đúng mức và nghiêm túc từ nhân lực, nguồn lực, công nghệ, trang web của doanh nghiệp. Ngoài ra, các doanh nghiệp chưa có sự chuẩn bị tốt cho việc xây dựng thương hiệu, hình ảnh sản phẩm, các chính sách marketing online chưa tạo được nhiều đột phá.

Hai là, thiếu nhân lực vận hành nắm vững về mô hình và phương thức vận hành kinh doanh trên nền tảng CBE, chưa định hình được doanh nghiệp nên sử dụng nền tảng CBE nào, kênh B2C hay B2B là phù hợp với mục tiêu phát triển thị trường của doanh nghiệp đang theo đuổi.

Ba là, thiếu kiến thức, kinh nghiệm và tư duy minh bạch, chậm cập nhật kiến thức về chuỗi cung ứng toàn cầu, khả năng thiết lập và quản lí dự án còn hạn chế. Ở cả hai chiều, người mua và người bán đều gặp khó khăn về ngôn ngữ, văn hóa kinh doanh.

Bốn là, các sàn TMĐT gặp khó khăn khi hỗ trợ người bán trực tuyến vào Việt Nam khi thủ tục thanh toán theo Nghị định 70/2014/ND-CP, quy định nhiều loại giấy tờ về chuyển tiền nước ngoài như: (i) lệnh chuyển tiền, (ii) văn bản yêu cầu mua ngoại tệ, (iii) hợp đồng ngoại thương, (iv) tờ khai hải quan hàng nhập khẩu, (v) hóa đơn, (vi) xác nhận hàng của người tiêu dùng, (vii) giấy ủy quyền của người tiêu dùng.

5. Kết luận

Như đã trình bày phần trên, hiện nay đã xuất hiện ngày càng nhiều các doanh nghiệp khởi nghiệp trong lĩnh vực này. Dù quy mô chưa lớn nhưng họ đã thực hiện hiệu quả các bài toán thực tiễn của TMĐT và logistics. Nếu gắn kết lại, tăng cường hợp tác và đẩy mạnh TMĐT xuyên biên giới sẽ mang lại nhiều lợi ích cho TMĐT Việt Nam trong xúc tiến xuất khẩu, phát triển thương hiệu thông qua nền tảng thương mại điện tử. Mặc dù đối mặt với nhiều thách thức, nhưng với sự hỗ trợ của các nhà chức trách bằng việc tăng cường quản lí hoạt động TMĐT xuyên biên giới; hoàn thiện cơ sở pháp lí nhằm đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ cho các bên tham gia; ban hành các chính sách khuyến khích, hỗ trợ CBE phát triển, cùng với sự nỗ lực của doanh nghiệp trong bối cảnh công nghệ 4.0, nền tảng CBE hỗ trợ đa kênh, chất lượng nguồn nhân lực ngày càng được nâng cao… TMĐT xuyên biên giới tại Việt Nam sẽ có sự phát triển mạnh mẽ trong tương lai gần.

ThS. Huỳnh Tấn Khương- Trường Đại học Trà Vinh

            Bài viết được đăng trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Các vấn đề đương đại trong lĩnh vực kinh tế, luật: từ lí thuyết đến thực tiễn”.

Bình luận: 0