An ninh môi trường Việt Nam những con số đáng báo động (Kỳ 1)
Kỳ 1: An ninh môi trường quan điểm của Việt Nam
An ninh môi trường từ khoá quan trọng trong phát triển bền vững
ANMT là một trong bảy thành tố quan trọng của an ninh phi truyền thống bao gồm kinh tế, lương thực, sức khỏe, môi trường, con người, cộng đồng và chính trị. Hiện nay có nhiều khái niệm khác nhau về ANMT. Năm 1972, tại Hội nghị Liên Hiệp Quốc về Môi trường và con người vấn đề ANMT lần đầu tiên được nêu ra trong các nội dung bàn luận của Hội nghị. Tiếp đó đến năm 1977, Cục Tình báo Liên bang Mỹ đã thiết lập một Trung tâm môi trường đầu tiên trên thế giới để nghiên cứu mối quan hệ giữa môi trường và an ninh quốc gia.
Tuy nhiên phải đến những năm 1980, định nghĩa, khái niệm về ANMT mới chính thức được nêu ra. Theo Đại Hội đồng Liên hợp quốc “Sự biến đổi tiêu cực của môi của các căng thẳng và tiêu cực xã hội ảnh hưởng đến nhân loại như đói nghèo, mù chữ, dịch bệnh.. (1987). Đến giữa những năm 90, Mỹ và một số nước khác đã chính thức công nhận khái niệm ANMT. Theo đó Mỹ là quốc gia đầu tiên đưa ANMT vào các vấn đề an ninh quốc gia. Năm 1991, Tổng thống Bush đưa ra sáng kiến thừa nhận ANMT là một bộ phận cấu thành của an ninh quốc gia. Năm 1994, chính quyền Bill Clinton chấp nhận quan niệm về ANMT là một bộ phận của chiến lược chung về an ninh quốc gia. Chiến lược an ninh quốc gia năm 1996 của Mỹ kết luận rằng: “Sự tăng trưởng dân số và các sức ép từ vấn đề môi trường sẽ bùng lên thành rối loạn xã hội quy mô lớn làm cho thế giới rất dễ bị tổn thương bởi sự bất đồng quốc tế nghiêm trọng”.
Năm 1992, Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc đã đưa ra một khái niệm tương đối hoàn thiện về ANMT “Sự khan hiếm các tài nguyên thiên nhiên, suy thoái và ô nhiễm môi trường và những hiểm họa có thể gây suy yếu nền kinh tế, gia tăng đói nghèo, gia tăng bất ổn chính trị, thậm chí trở thành ngòi nổ cho các cuộc xung đột và chiến tranh”. Đây là một định nghĩa khá toàn diện, phản ánh được bản chất cũng như các nội dung chính của ANMT.
Báo cáo Thiên niên kỷ do Hội đồng châu Mỹ của Liên Hợp quốc xác định: ANMT là việc đảm bảo an toàn trước các mối nguy hiểm môi trường sinh ra do sự yếu kém trong quản lý hoặc thiết kế và có nguyên nhân trong nước hay xuyên quốc gia. Xâm phạm ANMT được coi là một kiểu diễn biến hòa bình. Đây là quan điểm mang tính chủ động trong bảo vệ con người trước các nguy cơ về môi trường mà chưa nêu bật được sự ổn định tự nhiên vốn có của môi trường.
Theo một số nhà nghiên cứu trong nước thì ANMT là trạng thái ổn định và bền vững của môi trường có thể đáp ứng các điều kiện sống cơ bản của con người như cung cấp nơi ở, cung cấp năng lượng và nguyên liệu, khả năng chấp nhận chất thải, cung cấp thông tin khoa học và cung cấp các tiện nghi môi trường. ANMT là sự an toàn của môi trường sống, đáp ứng các điều kiện của con người trong một không gian, thời gian nhất định.
Như vậy có thể thấy, có nhiều cách hiểu khác nhau, cách tiếp cận cũng như phương diện tiếp cận khác nhau tuy nhiên hầu hết các nghiên cứu về an ninh môi trường đều khẳng định ANMT có sự tác động qua lại rõ rệt với các yếu tố kinh tế, chính trị, an ninh của mỗi một quốc gia. Do đó việc đảm bảo ANMT được coi là một nhiệm vụ cấp thiết mà bất cứ quốc gia nào cũng cần phải thực hiện. Nếu ANMT không được đảm bảo, xã hội không có sản xuất vật chất, không có đời sống tinh thần, không có sự tồn tại và phát triển. Việc đảm bảo ANMT cũng là bảo đảm điều kiện sống và phát triển của con người cũng như các loài sinh vật trong hệ thống đó.
Biểu hiện của môi trường bị mất an ninh là: cạn kiệt tài nguyên, thiên tai thường xuyên, thiên nhiên suy thoái, ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu, suy giảm tầng ô zôn, biến đổi các chu trình sinh – địa, suy giảm đa dạng sinh học… Vì vậy, nếu không giữ được An ninh môi trường thì những thảm họa môi trường sẽ gây suy yếu nền kinh tế, gia tăng đói nghèo, gia tăng bất ổn chính trị, trở thành ngòi nổ cho các bất ổn xã hội, các cuộc xung đột, chiến tranh và thậm chí hủy diệt loài người.
Thuật ngữ “phát triển bền vững” xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1980 trong ấn phẩm Chiến lược bảo tồn Thế giới (công bố bởi Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên Quốc tế – IUCN) với nội dung rất đơn giản: “Sự phát triển của nhân loại không thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế mà còn phải tôn trọng những nhu cầu tất yếu của xã hội và sự tác động đến môi trường sinh thái học” . Khái niệm này được phổ biến rộng rãi vào năm 1987 nhờ Báo cáo Brundtland của Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới – WCED (nay là Ủy ban Brundtland). Báo cáo này ghi rõ: Phát triển bền vững là “sự phát triển có thể đáp ứng được những nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại đến những khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai…” . Nói cách khác, phát triển bền vững phải bảo đảm có sự phát triển kinh tế hiệu quả, xã hội công bằng và môi trường được bảo vệ, gìn giữ. Để đạt được điều này, tất cả các thành phần kinh tế, xã hội, nhà cầm quyền, các tổ chức xã hội… phải phối hợp với nhau thực hiện nhằm đảm bảo ổn định cả 3 yếu tố là kinh tế, xã hội và môi trường.
Như vậy có thể thấy, trong 3 trụ cột của phát triển bền vững, ANMT là một trong 3 yếu tố quan trọng đó. Muốn thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững cần đảm bảo ANMT. ANMT cũng là một thành tố giúp thực hiện được 2 trụ cột còn lại của Phát triển bền vững.
Quan điểm về An ninh môi trường của Việt Nam
Quan điểm của Đảng ta về bảo vệ môi trường, ANMT xuyên suốt quá trình lãnh đạo, xâu dựng đất nước đó là thực hiện sản xuất và tiêu dùng bền vững; từng bước phát triển năng lượng sạch, sản xuất sạch, tiêu dùng sạch. Chú trọng kiểm soát ô nhiễm môi trường; khai thác sử dụng tiết kiệm, hợp lý, hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường sinh thái. Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu. Đảng ta khẳng định bảo vệ môi trường là nhiệm vụ của toàn xã hội từ hệ thống chính trị đến toàn xã hội, mọi công dân. Những nội dung này được thể hiện rõ trong các Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến Đại hội XIII; trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991, sửa đổi, bổ sung năm 2011; trong các Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 1991 - 2000, 2001 - 2010, 2011 - 2020, 2021 - 2030; Chỉ thị số 36-CT/TW, ngày 25-6-1998, của Bộ Chính trị “Về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”; Nghị quyết số 41-NQ/TW của Bộ Chính trị, ngày 15-11-2004, “Về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước”; Nghị quyết số 24-NQ/TW, ngày 3-6-2013, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI “Về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường”...
Cụ thể như Nghị quyết số 41-NQ/TWngày 15/11/2004 của Bộ Chính trị khóa IX về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước có nêu “Bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề sống còn của nhânloại; là nhân tố bảo đảm sức khỏe và chất lượng cuộc sống của nhân dân; góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế - xã hội, ổn định chính trị, an ninh quốc phòng và thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta”. Hay trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, trong đó nhấn mạnh: “Tăng cường công tác quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu phục vụ phát triển bền vững theo hướng bảo đảm tính tổng thể, liên ngành, liên vùng, đáp ứng nhiệm vụ trước mắt và lâu dài, trong đó lợi ích lâu dài và cơ bản, có trọng tâm, trọng điểm, phù hợp với từng giai đoạn” và yêu cầu phải “sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh truyền thống và phi truyền thống”.
Đến đại hội XIII của Đảng, vấn đề bảo vệ môi trường càng được đề cập cụ thể hơn, chi tiết hơn trong đó các nội dung được đề cập đến như:
Thứ nhất, tiếp tục khẳng định quyền được sống trong môi trường trong lành là quyền lợi chính đáng của người dân. Do đó phải “lấy bảo vệ môi trường sống và sức khỏe của nhân dân là mục tiêu hàng đầu; kiên quyết loại bỏ những dự án gây ô nhiễm môi trường, bảo đảm chất lượng môi trường sống, bảo vệ đa dạng sinh học và hệ sinh thái”(3). Nâng cao chất lượng môi trường không khí, có biện pháp hạn chế ô nhiễm tiếng ồn, xử lý rác thải ở các đô thị, khu vực đông dân cư.
Thứ hai, nhiệm vụ bảo vệ môi trường là nhiệm vụ của toàn xã hội tuy nhiên nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Theo đó, Nhà nước phải quản lý khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả và bền vững tài nguyên; hoàn chỉnh công tác điều tra cơ bản, đánh giá, xây dựng cơ sở dữ liệu về tài nguyên đất, nước, rừng, biển, khoáng sản và đa dạng sinh học. Xây dựng hệ thống và cơ chế giám sát tài nguyên, môi trường; Chấn chỉnh công tác bảo vệ, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong lĩnh vực quản lý tài nguyên, môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu. Đấu tranh, ngăn chặn và xử lý nghiêm mọi hành vi vi phạm pháp luật về tài nguyên và môi trường, đẩy lùi tình trạng ô nhiễm, xâm hại môi trường, suy thoái tài nguyên và suy giảm đa dạng sinh học. Thúc đẩy xã hội hóa các hoạt động bảo vệ tài nguyên, môi trường…
Thứ ba tiếp tục khẳng định các vấn đề sinh thái, môi trường, nguồn nước, lương thực, y tế là những vấn đề mang tầm an ninh quốc gia. Trong đó, nhấn mạnh cần xây dựng chiến lược an ninh nguồn nước quốc gia.
Thứ tư, thúc đẩy phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thúc đẩy tái sử dụng, tái chế và sản xuất thu hồi năng lượng từ chất thải gắn với hình thành chuỗi sản xuất tiếp nối, liên tục, phát triển một nền kinh tế bền vững, gắn với bảo vệ môi trường, bảo tồn tài nguyên.
Từ những quan điểm, nhận định của Đảng về bảo vệ môi trường, ANMT Nhà nước ta đã cụ thể hóa thành hệ thống chính sách pháp luật về Môi trường như Luật Bảo vệ môi trường 2014; Luật Tài nguyên nước 2012; Luật Phòng chống thiên tai 2013; Luật Đa dạng sinh học 2008,…hay các chương trình, đề án, hoạt động cụ thể như Chiến lược bảovệ môi trường quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; Chiến lược Phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011-2020; Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu;…Cụ thể
Hiến pháp 2013 thể hiện sự chuyển biến mạnh mẽ so với Hiến pháp khi lần đầu tiên ghi nhận quyền được sống trong môi trường trong lành (Điều 43); thực hiện phát triển bền vững (Điều 50); bảo vệ môi trường; quản lý, sử dụng hiệu quả, bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên; bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học; chủ động phòng, chống thiên tai, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu (Điều 63).
Luật Bảo vệ môi trường năm 1993 đến Luật Bảo vệ môi trường năm 2005, Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 và nay là Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 là sự cụ thể hóa các quan điểm đúng đắn của Đảng về bảo vệ môi trường; bổ sung nguyên tắc bảo đảm phát triển bền vững, nguyên tắc bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành và chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu.
Ngoài ra nhiều khía cạnh, vấn đề khác của môi trường đã được đề cập đến trong các luật chuyên ngành như Luật Tài nguyên nước, Luật Biển Việt Nam năm 2012, Luật Tài nguyên môi trường biển và hải đảo năm 2015, Luật Thủy sản, Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004, Luật Lâm nghiệp năm 2017, Luật Đa dạng sinh học năm 2008,… Hay một số Luật có quy định trong việc xử lý các sai phạm trong bảo vệ môi trường như Bộ Luật Dân sự, Bộ Luật hình sự.
Đến nay, Việt Nam đã ký kết tham gia 23 công ước quốc tế về môi trường. Việt Nam đã cùng148 quốc gia khác trên thế giới phê chuẩn việc thực hiện Thỏa thuận Paris về Biến đổi khí hậu. Mới đây nhất, những cam kết của Việt Nam tại Corp 26 đã được cộng đồng quốc tế đánh giá rất cao, thể hiện Việt Nam là một quốc gia thành viên có trách nhiệm với cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào các hoạt động bảo vệ môi trường.
Như vậy có thể thấy, từ nhận định đến những hoạt động cụ thể của chính sách pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường của nước ta đều khá thống nhất, đồng bộ, chi tiết, bám sát các tiêu chuẩn, quy định quốc tế về bảo vệ môi trường. Tuy nhiên cần chú ý một số vấn đề như: Tiếp tục thể chế hóa quan điểm bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành của con người; Tiếp tục thể chế hóa quan điểm phát triển bền vững vào pháp luật môi trường và các văn bản pháp lý liên quan theo hướng không chỉ hoàn thiện riêng một lĩnh vực pháp luật nào mà cần tiếp cận hoàn thiện đồng bộ pháp luật về phát triển bền vững theo nội hàm mở rộng; Tiếp tục thể chế cụ thể, rõ ràng hơn nữa trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước trong bảo vệ môi trường; Tiếp tục thể chế hóa quan điểm của Đảng về xã hội hóa hoạt động bảo vệ môi trường; Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, cần nghiên cứu ban hành Luật Về ứng phó với biến đổi khí hậu; Xây dựng hoàn thiện thể chế pháp lý về an ninh môi trườnghoàn thiện thể chế về mô hình phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn…
Phúc Nguyễn
Theo Tạp chí Tri thức Xanh số 161 - 05/2022
Tin tức liên quan
- Đan Phượng (Hà Nội): Tích cực khắc phục hậu quả cơn bão số 3 (11:26 11/09/2024)
- Phát triển kinh tế biển gắn với bền vững và thích ứng với biến đổi khí hậu (09:46 29/06/2022)
- Đa dạng sinh học ở Việt Nam dưới tác động của các hoạt động kinh tế (Kỳ 1) (11:48 18/06/2022)
- Quy định bảo vệ môi trường di sản thiên nhiên trong Luật BVMT và Nghị định số 08/2022/NĐ-CP (02:29 06/06/2022)
- Những điểm mới của Luật Bảo vệ môi trường 2020 (12:19 30/05/2022)