Dịch vụ xã hội cơ bản cho thanh niên công nhân và những vấn đề đặt ra trong quản lý xã hội tại các khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam
Giáo dục cơ bản: Mầm non, tiểu học, xóa mù chữ cho người lớn;
Y tế cơ bản: Bao gồm tất cả các dịch vụ ở: các trung tâm y tế xã/phường; các phòng khám đa khoa khu vực; các bệnh viện và trung tâm y tế quận. huyện; và chăm sóc sức khỏe ban đầu, gồm y tế dự phòng (phòng dịch cho trẻ, chăm sóc sau khi sinh đẻ, giáo dục y tế) và các chương trình y tế công cộng (sức khỏe bà mẹ và trẻ em, bệnh sốt rét, bệnh lao, thuốc và dược liệu cơ bản, vệ sinh) và chương trình quốc gia về dinh dưỡng;
Dân số và kế hoạch hóa gia đình.
Các dịch vụ xã hội liên quan đến cứu trợ thiên tai.
Nước sạch và vệ sinh: Các dự án nước sạch và vệ sinh nông thôn, các dự án nước sạch và vệ sinh ở các khu vực ven đô. Nghị quyết 15 Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Khóa XI của Đảng ngày 01 tháng 6 năm 2012 “Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020” đã xác định cụ thể một số dịch vụ xã hội cơ bản cho người dân, bao gồm: giáo dục tối thiểu, y tế tối thiểu, nhà ở tối thiểu, nước sạch và vệ sinh môi trường và thông tin truyền thông. Dịch vụ xã hội cơ bản cung cấp cho người dân nhằm thực hiện các chức năng: Bảo đảm các nhu cầu cơ bản của người dân, bao gồm nhu cầu sống, nhu cầu hội nhập xã hội và nhu cầu an sinh tại cộng đồng; Là chìa khóa để phát triển “vốn con người” hướng tới một lực lượng dân số khỏe mạnh và có tri thức nhằm có được sự độc lập về kinh tế và chủ động tham gia thị trường lao động và thực hiện công bằng, đảm bảo mọi người có được các điều kiện cùng tham gia vào quá trình phát triển xã hội.
Thanh niên công nhân (TNCN) làm việc trong các khu công nghiệp, khu chế xuất (KCN, KCX) hiện có rất nhiều đóng góp không nhỏ vào sự phát triển và tăng trưởng của nền kinh tế. Tuy vậy, đối tượng TNCN đang làm việc tại các KCN, KCX hiện nay đang phải đối mặt với hàng loạt vấn đề trong đời sống cũng như trong công việc. Đời sống của một bộ phận không nhỏ TNCN hiện nay thấp hơn mặt bằng chung của xã hội. Đồng thời, TNCN cũng bị hạn chế nhiều trong tiếp cận các dịch vụ giáo dục, y tế, nhà ở; không được tham gia BHXH, BHYT. Thu nhập thấp và không ổn định, cùng với đó là tay nghề thấp. Đa số phải sống trong những khu nhà trọ với điều kiện sinh hoạt vô cùng khó khăn. Vì vậy, khả năng hòa nhập vào cộng đồng dân cư nơi đến cũng thường rất hạn chế. Công nhân nói chung và TNCN nói riêng thường ít được bình đẳng so với người dân đô thị trong tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản. Mặt khác, bản thân cơ sở hạ tầng cung cấp dịch vụ xã hội cơ bản cho người dân đô thị như y tế, giáo dục, nhà ở, vệ sinh môi trường… cũng đang bị quá tải. Các chính sách quản lý lĩnh vực này cũng còn nhiều bất cập. Trong bối cảnh đó, TNCN và gia đình họ gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống, cụ thể là việc làm và các nhu cầu về dịch vụ xã hội cơ bản.
Bài viết này tập trung tìm hiểu việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của TNCN trong các KCN, KCX hiện nay cũng như những khó khăn, đề xuất của họ. Bài viết giúp nhận diện một khía cạnh nhỏ trong đời sống của TNCN hiện nay và hy vọng là căn cứ khoa học đáng tin cậy cho việc đề xuất các chính sách, cơ chế dành cho TNCN hiện nay, từ đó góp phần ổn định đời sống, công việc của nhóm đối tượng này mà xa hơn là mang đến sự ổn định của xã hội.
Khách thể và phương pháp thu thập số liệu
Khách thể nghiên cứu
Khách thể tham gia nghiên cứu gồm: 550 TNCN (tuổi từ 16 đến 30) đang làm việc trong các KCN, KCX tại các địa bàn: Hà Nội, Bắc Ninh và Quảng Nam. Tất cả các khách thể nêu trên trước khi tham gia khảo sát đều được giới thiệu mục đích nghiên cứu và tham gia trên cơ sở tự nguyện. Tất cả thanh niên tham gia khảo sát đều được trả kinh phí. Các thông tin cá nhân của người tham gia đều được giữ bí mật và chỉ được sử dụng cho mục đích khoa học.
Phương pháp thu thập số liệu
Phương pháp chính được sử dụng trong nghiên cứu là điều tra bằng bảng hỏi. Bảng hỏi gồm các câu hỏi liên quan đến các dịch vụ xã hội dành cho TNCN như: Nhà ở và sinh hoạt; Nghề nghiệp - Việc làm; Y tế và chăm sóc sức khỏe. Việc thu thập dữ liệu này được thực hiện vào quý I/2019. Ngoài ra, nội dung của bảng hỏi khảo sát đều có thu thập thêm các thông tin liên quan đến những khó khăn mà TNCN hiện nay đang gặp phải cũng như những mong muốn, đề xuất của họ.
Kết quả nghiên cứu và bàn luận
Việc tiếp cận và sử dụng các dịch vụ xã hội dành cho TNCN
Dịch vụ xã hội liên quan đến nhà ở và sinh hoạt: Hiện nay, chủ trương phát triển dự án nhà ở xã hội dành cho người có thu nhập thấp đã được triển khai ở nhiều địa phương với diện tích các căn hộ dao động trong khoảng từ 30-70 m2 có giá bán từ 300 triệu đến 1 tỷ đồng. Tìm hiểu ý kiến của thanh niên về vấn đề này, kết quả điều tra cho thấy, (54,9%) thanh niên cho rằng đây là mức giá quá cao so với thu nhập hiện nay và 34,7% cho rằng mức giá này phù hợp với người lao động có thể trả trong vài năm, thậm chí là có thể trả một lần (10,4%). Như vậy có thể thấy, với mức thu nhập hiện tại của người lao động và giá mua nhà ở xã hội hiện nay thì việc có thể sở hữu một căn hộ vẫn là khó khăn đối với nhiều người lao động có thu nhập thấp.
Để giải quyết những khó khăn của người lao động di cư làm việc tại các KCN, KCX về điều kiện sinh sống, thời gian qua, nhiều địa phương và KCN, KCX đã phát triển dự án nhà ở xã hội, nhà lưu trú với các điều kiện cố gắng đảm bảo phù hợp với nhu cầu của người lao động. Tìm hiểu thực tế việc sử dụng dịch vụ này của TNCN làm việc tại KCN, KCX tại các địa bàn khảo sát cho thấy, có 54,2% thanh niên đang thuê trọ tại các nhà lưu trú công nhân hoặc nhà ở xã hội. Như vậy có gần ½ số thanh niên không sử dụng dịch vụ này và thuê trọ tại các khu vực dân cư. Tìm hiểu lý do TNCN làm việc tại các KCN, KCX không sử dụng dịch vụ nhà ở xã hội, nhà lưu trú cho thấy, giá thuê nhà của các dịch vụ này không phải là vấn đề rào cản trong việc tiếp cận dịch vụ của thanh niên, mà tập trung chủ yếu ở các nguyên nhân như: Giá dịch vụ cao (32,1%); Quản lý quá chặt chẽ (26,6%); Chất lượng nhà ở kém (24,6%); Thiếu các khu dịch vụ (16,3%)... Như vậy, điều kiện dịch vụ và công tác quản lý chưa phù hợp là những yếu tố rào cản trong việc tiếp cận dịch vụ nhà lưu trú, nhà ở xã hội của TNCN. Điều này đồng nghĩa với việc, thanh niên có xu hướng dịch chuyển tiếp cận dịch vụ thuê nhà trọ tại các khu vực dân cư. Để tăng cường cơ hội tiếp cận của TNCN đối với dịch vụ nhà lưu trú nhà ở xã hội, vấn đề cải thiện các điều kiện dịch vụ và công tác quản lý linh hoạt, phù hợp hơn với thanh niên là điều cần quan tâm đối với các địa phương và KCN, KCX. Đây là một điều đáng quan tâm trong thời gian tới bởi trong trường hợp phát sinh các tranh chấp hay vấn đề nảy sinh trong quá trình thuê trọ, nếu không có hợp đồng thuê trọ, TNCN rất dễ bị xâm phạm các quyền lợi cũng như không có căn cứ để đòi hỏi các quyền lợi.
Bên cạnh đó, nhóm TNCN đang thuê nhà trọ tại khu vực dân cư, cho biết 60,7% thanh niên không quan tâm đến việc ký hợp đồng thuê nhà với chủ nhà trọ. Những lý do thanh niên đưa ra là: Họ không nghĩ đến việc ký hợp đồng (37,3%); cảm thấy không cần thiết (37,3%); không xác định ở lâu dài (28,4%) hay chủ nhà không muốn ký hợp đồng (28,1%).
Hiện nay đã có quy định mới về giá điện, nước và các điều kiện sử dụng để đảm bảo quyền lợi cho người thuê nhà. Tuy nhiên trên thực tế người thuê nhà vẫn phải chịu mức giá cao hơn nhiều so với quy định. Tìm hiểu về vấn đề này, thanh niên cho rằng tình trạng trên là do: TNCN không biết đến những quy định (47,8%); địa phương không có hoạt động kiểm tra, giám sát (46,0%). Số còn lại cho rằng chủ nhà trọ không biết về quy định này (6,2%). Tình trạng này nếu tiếp tục kéo dài sẽ gây ra nhiều khó khăn cho TNCN trong đời sống sinh hoạt, từ đó, có thể dẫn đến tâm lý lo lắng, bất an cho thanh niên.
Dịch vụ xã hội liên trong lĩnh vực nghề nghiệp, việc làm
Về mức hỗ trợ học nghề: Tìm hiểu ý kiến của thanh niên về mức hỗ trợ học nghề đối với người lao động, kết quả cho thấy: Hơn 2/3 TNCN cho rằng mức hỗ trợ như hiện nay (1 triệu đồng/người/tháng) đã giúp được phần nào cho thanh niên học nghề: đủ giúp cho thanh niên học nghề (25,8%), (42,7%) giúp được một phần. Có (31,5%) TNCN cho rằng mức hỗ trợ này gần như không giúp được gì trong quá trình học nghề cho người lao động. Như vậy, mức hỗ trợ học nghề cho người lao động đã mang lại những lợi ích nhất định cho TNCN, tuy nhiên, mới chỉ giúp được một phần là chủ yếu.
Về việc tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện: Bảo hiểm xã hội tự nguyện là loại hình bảo hiểm xã hội mà người lao động tự nguyện tham gia, được lựa chọn mức đóng và phương thức đóng phù hợp với thu nhập của mình để hưởng bảo hiểm xã hội. Kết quả điều tra cho thấy, có 50,5% TNCN đang tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện và 49,5% không tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện. Lý do lớn nhất khiến thanh niên không tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện là vì: Không được hỗ trợ khi gặp tai nạn, bệnh nghề nghiệp; loại bảo hiểm này không có chế độ ốm đau, thai sản hoặc mức đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện cao, không có khả năng chi trả. Điều này cho thấy, các điều khoản, quy định về phạm vi áp dụng của bảo hiểm xã hội tự nguyện còn nhiều hạn chế đối với người tham gia.
Dịch vụ xã hội trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe và y tế
Về hoạt động khám sức khỏe bằng bảo hiểm y tế: Kết quả điều tra cho thấy, có (60,0%) TNCN tham gia khám chữa bệnh bằng bảo hiểm y tế (BHYT). Như vậy, một bộ phận không nhỏ TNCN đang làm việc tại các KCN, KCX (40,0%), mặc dù biết BHYT góp phần giảm chi phí khám, chữa bệnh nhưng lại ít khi đi khám bằng bảo hiểm. Những lý do chính được thanh niên lý giải cho việc không tham gia khám chữa bệnh bằng BHYT gồm: BHYT chỉ thanh toán cho một số bệnh đơn giản (51,8%); Thái độ nhân viên y tế không thân thiện (44,5%); Danh mục thuốc khám theo BHYT còn ít (40,9%); Thủ tục rườm rà, chờ đợi lâu (39,5%)... Mặc dù thời gian qua đã có nhiều cải thiện, song chất lượng khám chữa bệnh bằng BHYT vẫn còn nhiều điểm hạn chế, đôi khi là chưa phù hợp, nhất là đối với những TNCN làm việc tại các KCN, KCX với điều kiện kinh tế kinh tế còn hạn chế và thời gian làm việc kéo dài, khó xin nghỉ vào ngày hành chính để đi khám chữa bệnh bằng BHYT. Điều này có thể gây ra nhiều khó khăn cho thanh niên trong quá trình chăm sóc, bảo vệ sức khỏe của bản thân và gia đình.
Về hoạt động chăm sóc sức khỏe của doanh nghiệp đối với người lao động: Kết quả điều tra cũng cho thấy, nhìn chung các doanh nghiệp trong thời gian qua đã có những chính sách nhằm hỗ trợ, bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cho người lao động thông qua các hoạt động khác nhau. Tuy nhiên, trên thực tế chỉ có khoảng 1/3 số thanh niên trong mẫu khảo sát nhận được các hỗ trợ như: khám sức khỏe, điều trị bệnh, chế độ thai sản, an toàn lao động, khẩu phần ăn đủ chất,…Vẫn còn tỷ lệ khá cao TNCN không nhận được những hỗ trợ này. Đây cũng là vấn đề cần được quan tâm, xem xét trong thời gian tới để đảm bảo quyền lợi cho người lao động đang làm việc trong các KCN, KCX hiện nay.
Thực trạng tiếp cận thông tin
Ở Việt Nam, một trong những quyền cơ bản của con người được xác định chính là quyền tiếp cận thông tin, bao gồm cơ bản những quyền: quyền tự do tìm kiếm, trao đổi thông tin, quyền yêu cầu cung cấp thông tin, quyền phổ biến thông tin. Quyền tiếp cận thông tin lao động nói chung và TNCN nói riêng được bảo đảm và không có sự phân biệt, hạn chế so với các nhóm đối tượng khác trong xã hội. Quy định tại Điều 3 của Luật Tiếp cận thông tin đã ghi nhận quyền tiếp cận thông tin thống nhất và tương đối đầy đủ. Mọi công dân đều bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trong việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin; thông tin được cung cấp phải chính xác, đầy đủ; việc cung cấp thông tin phải kịp thời, minh bạch, thuận lợi cho công dân; đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật; việc hạn chế quyền tiếp cận thông tin phải do luật định trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng,... Luật Tiếp cận thông tin cũng quy định cụ thể vai trò, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cùng các trình tự, thủ tục cần thiết để đảm bảo quyền tiếp cận thông tin cho người dân.
Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, đời sống kinh tế xã hội và sự đổi mới cơ chế làm việc của các cơ quan, doanh nghiệp hiện nay, việc tiếp cận thông tin đối với lao động di cư ngày càng thuận tiện, dễ dàng hơn. Tại khu vực thành thị, lao động di cư có sự thuận tiện, dễ dàng hơn trong tiếp cận thông tin. Chỉ có 1,1% lao động di cư tại Hà Nội gặp khó khăn về tiếp cận thông tin, thấp nhất cả nước nhưng tại khu vực Tây Nguyên, tỷ lệ này là 23,9 % cao nhất cả nước. Tuy nhiên phạm vi, chất lượng và nguồn thông tin cho lao động di cư nhìn chung vẫn còn còn hạn chế. Lao động di cư nắm bắt được thông tin về nơi mình cư trú thông qua người thân, bạn bè là chủ yếu, chiếm đến 46,7% (Nguyễn Hiền Phương, 2018). Theo nghiên cứu của Oxfam, có đến 67,2% lao động di cư không biết nơi cung cấp thông tin và tư vấn về Bộ luật Lao động và Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Bảo hiểm y tế. Mặc dù Luật Tiếp cận thông tin đã được ban hành và có ý nghĩa ghi nhận quyền tiếp cận thông tin thống nhất và tương đối đầy đủ nhất nhưng đa số lao động di cư chưa thực sự hiểu và nắm được quyền tiếp cận thông tin của mình. Đây là một trong những hạn chế lớn đối với lao động di cư trong việc đảm bảo các quyền con người, tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản khác.
Theo một khảo sát của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch về đời sống văn hóa tinh thần của công nhân tại 13 tỉnh, thành phố tập trung nhiều KCN, KCX cho thấy: Hơn 60,0% số công nhân lao động không xem tivi, nghe đài; 85,0% không đọc sách, báo. Theo một khảo sát của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, có gần 90% công nhân sống trong những khu nhà trọ dân lập, thiếu cả những trang, thiết bị sinh hoạt đơn giản nhất. Phần lớn công nhân tại các KCN, KCX đang sống trong môi trường 3 không: không tivi, không sách báo, không internet... Qua thực tế khảo sát ở một số nơi cho thấy, hầu hết thanh niên công nhân ở các KCN, KCX đang phải thuê các nhà trọ. Do thời gian và cường độ làm việc căng thẳng, thu nhập thấp nên đa số công nhân không đủ điều kiện để mua sắm các phương tiện phục vụ nhu cầu sinh hoạt văn hóa như đài, tivi, sách báo… Đa phần, đời sống của lao động nhập cư ở khu vực này khá khó khăn; đời sống vật chất, tinh thần còn nhiều thiếu thốn, áp lực, cường độ lao động căng thẳng, ít có thời gian vui chơi, giải trí. Ngoài giờ làm việc, các phương tiện thông tin, giải trí của lực lượng này chỉ chủ yếu qua máy tính, điện thoại cá nhân có kết nối internet. Một lối sống đơn điệu kéo dài dễ đẩy một bộ phận thanh niên công nhân sa vào lối sống không lành mạnh, ảnh hưởng tới tái sản xuất sức lao động của công nhân, thậm chí có thể dẫn đến những hành vi vi phạm pháp luật. Bên cạnh đó, việc thiếu thốn các phương tiện thông tin giải trí khiến một bộ phận thanh niên khó khăn trong tiếp cận và cập nhật các thông tin về đời sống, chính sách...
Những khó khăn trong đời sống của TNCN hiện nay
Qua kết quả nghiên cứu và những thông tin nắm bắt được từ thực tiễn đời sống, TNCN hiện nay đang gặp phải những khó khăn sau: Môi trường, điều kiện làm việc của một bộ phận TNCN còn chưa được đảm bảo. Khoảng trên dưới 1/3 TNCN hiện nay không được đảm bảo an toàn lao động (32,4%) trong khi làm việc; công việc ảnh hưởng đến sức khỏe (35,6%); thời gian lao động kéo dài so với quy định (34,9%); không có nhiều thời gian nghỉ ngơi (36,9%); Công việc của TNCN còn thiếu tính ổn định và nhiều rủi ro. Kết quả điều tra cho thấy, có khoảng 1/3 TNCN có công việc bấp bênh, không ổn định; không được ký hợp đồng lao động (33,6%); thu nhập thấp (36,0%) và bị nợ lương hoặc trả lương không đúng hạn (32,4%); Các chế độ phúc lợi dành cho TNCN trong quá trình làm việc mới đáp ứng được một phần cho người lao động. Hiện nay, trong quá trình làm việc, thanh niên còn gặp nhiều khó khăn do không có chế độ phúc lợi xã hội (34,2%) hoặc không được đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế (34,9%); Trong một số trường hợp phát sinh tranh chấp trong lao động, quyền lợi của một bộ phận thanh niên không được đảm bảo. Tình trạng này được đánh giá xuất phát từ những nguyên nhân chính là: tổ chức công đoàn chưa đủ tiếng nói để bảo vệ người lao động; thanh niên không biết nhờ ai để bảo vệ quyền lợi của mình; công tác thông tin tuyên truyền còn chưa kịp thời. Thậm chí, chính bản thân thanh niên còn chưa hiểu rõ hết những quyền lợi của mình.
TNCN còn gặp nhiều khó khăn cản trở trong tiếp cận các dịch vụ công, cụ thể là trong đăng ký tạm trú, tạm vắng. Kết quả điều tra cho thấy, 35,1% thanh niên đã từng gặp khó khăn trong quá trình làm thủ tục đăng ký tạm trú tạm vắng. Trong đó, những nguyên nhân chủ yếu là: Thủ tục rườm rà (64,2%); cán bộ làm thủ tục không hỗ trợ nhiệt tình (45,1%); không có hợp đồng thuê nhà (37,3%).
Những khó khăn trong quản lý tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản tại các KCN, KCX
Qua tìm hiểu từ thực tiễn, chúng tôi nhận thấy, những khó khăn trong quản lý tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản tại các KCN, KCX có thể kể đến gồm: Khả năng xã hội hóa huy động các nguồn lực đầu tư vào xây dựng và phát triển các dịch vụ xã hội cơ bản dành cho người lao động nói chung và TNCN trong các KCN, KCX nói riêng còn nhiều hạn chế. Công tác xã hội hóa, huy động sự tham gia đóng góp của khu vực tư nhân còn nhiều bất cập, chưa phát huy hết tiềm năng tham gia của người dân, doanh nghiệp và các đối tác xã hội; Hệ thống chính sách an sinh xã hội dành cho người lao động còn cồng kềnh, trùng chéo. Hiện có khoảng 233 văn bản chính sách do Đảng, Quốc hội, Chính phủ và các Bộ ngành, cơ quan khác nhau ban hành và tổ chức thực hiện. Do quá nhiều chính sách, lại được ban hành ở nhiều giai đoạn khác nhau, áp dụng cho nhiều nhóm đối tượng, thiếu tính hệ thống, gây khó khăn cho việc áp dụng chính sách, quản lý đối tượng. Chủ trương tích hợp chính sách, lồng ghép chính sách cho cùng một nhóm hưởng thụ chưa thực hiện được; Một số chương trình an sinh xã hội và cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản chưa thực sự hiệu quả. Chương trình đào tạo nghề cho lao động nông thôn, các chương trình trợ giúp xã hội còn phân tán về đối tượng, kinh phí, tổ chức thực hiện. Công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến chính sách về an sinh xã hội ở một số địa phương còn yếu, hình thức thông tin, tuyên truyền chưa hiệu quả; Việc đảm bảo tối thiểu các dịch vụ xã hội cơ bản cho người lao động có nhiều thách thức. Phạm vi bao phủ của chính sách còn hẹp; thiếu tài chính và sự phân bố tài chính hợp lý giữa các chương trình; các công cụ, chính sách thiếu nhạy bén, đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế còn nhiều khó khăn, cải cách kinh tế và biến đổi khí hậu; Sự tham gia của cơ quan, đoàn thể và xã hội, huy động nguồn lực cho thực hiện chính sách chưa tốt, còn phân tán. Nhận thức về vai trò của đảm bảo các dịch vụ xã hội cơ bản cho người lao động của một số cấp uỷ, chính quyền, tổ chức, doanh nghiệp chưa đúng và chưa đầy đủ. Còn tư tưởng trông chờ vào Nhà nước, vào Trung ương về chính sách và kinh phí; Công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, luật pháp, thanh kiểm tra, giám sát việc thực hiện đảm bảo các dịch vụ xã hội cơ bản cho người lao động chưa được quan tâm đúng mức; Việc quản lý người lao động được thụ hưởng các dịch vụ an sinh xã hội cơ bản còn chưa có hiệu quả: chưa có mã số đối với từng TNCN, các chỉ tiêu đánh giá, giám sát chưa thống nhất, công tác kiểm tra, giám sát chưa được thực hiện thường xuyên.
Những vấn đề cần quan tâm và đề xuất giải pháp
Thông qua thực tiễn tiếp cận, sử dụng các dịch vụ xã hội cơ bản của TNCN nêu trên cũng như những khó khăn đã được chỉ rõ, chúng tôi nhận thấy, thời gian tới cần tập trung vào một số vấn đề sau để hỗ trợ và cải thiện tốt hơn đời sống của TNCN tại các KCN,KCX, cụ thể gồm:
Thứ nhất: Giải quyết những khó khăn trong lao động, việc làm: Để giải quyết những khó khăn, bất cập hiện đang tồn tại trong lĩnh vực lao động, việc làm của TNCN, kết quả khảo sát cho thấy, những đề xuất giải pháp được TNCN ưu tiên nhất (với trên 50% TNCN tham gia khảo sát đề xuất) gồm: Cung cấp phiếu đào tạo cho người lao động thất nghiệp để họ tự đi học nghề phù hợp với bản thân (56,9%); Có chính sách hỗ trợ người lao động di cư quay về địa phương (56,7%); Mở rộng chính sách đào tạo, hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp cho lao động di cư (55,3%); Xây dựng các trung tâm đào tạo nghề gần các KCN, KCX (54,5%). Những đề xuất của TNCN thể hiện sự mong đợi của họ trong vấn đề nghề nghiệp, việc làm như được hỗ trợ về học nghề, hỗ trợ nghề nghiệp và hỗ trợ sản xuất khi quay trở về địa phương lao động.
Bên cạnh đó, một số vấn đề khác cũng được thanh niên nêu nên với mong muốn nhằm cải thiện những khó khăn, bất cập đang tồn tại trong vấn đề lao động, việc làm của TNCN như: Điều chỉnh quỹ lương, có kế hoạch tăng lương định kỳ hàng năm cho công nhân (45,6%); Có sự hỗ trợ giải quyết việc làm cho công nhân khi đến một độ tuổi nhất định (ví dụ sau 35-40 tuổi) (32,5%); Có chính sách “tặng ngày nghỉ” cho những công nhân hoàn thành xuất sắc công việc, mang lại hiệu quả sản xuất cao cho doanh nghiệp (28,2%). Khi được hỏi “Trong trường hợp công việc hiện tại của bạn không thể làm lâu dài, bạn sẽ làm gì?”, kết quả khảo sát cho thấy có hai xu hướng như sau: Xu hướng lựa chọn tiếp tục ở lại thành phố chiếm ¾ số thanh niên. Lý do để thanh niên ở lại thành phố chủ yếu là: Ở thành phố kiếm được nhiều tiền (70,0%); có chế độ, dịch vụ an sinh xã hội tốt hơn (60,3%); có nhiều cơ hội việc làm hơn (49,6%); Xu hướng thứ hai: quay trở về địa phương (26,7%) với mong muốn được địa phương hỗ trợ về: vốn kinh doanh (45,6%); hỗ trợ cơ sở vật chất sản xuất (44,9%); học nghề (40,8%); hỗ trợ đất sản xuất (38,1%) và hỗ trợ thị trường tiêu thụ sản phẩm (36,7%).
Như vậy, xu hướng ở lại thành phố để làm việc là xu hướng chủ đạo trong dịch chuyển việc làm của TNCN hiện nay. Bên cạnh đó, để đảm bảo đời sống, phát triển cho TNCN mong muốn trở về quê hương làm việc thì các tổ chức chính quyền, đoàn thể cần có những cơ chế, chính sách để động viên và hỗ trợ nhằm đảm bảo đời sống, phát triển cho thanh niên.
Về việc thành lập tổ chức bảo vệ quyền lợi người lao động: Trong Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Việt Nam cam kết cho phép người lao động được quyền thành lập tổ chức đại diện tại doanh nghiệp để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình tại chính doanh nghiệp đó. Khi được hỏi “Nếu thành lập tổ chức đại diện cho người lao động tại các doanh nghiệp, bạn có kỳ vọng như thế nào vào tổ chức này”, kết quả điều tra cho thấy, chiếm 67,8% người lao động sẽ tự nguyện tham gia, đồng thời có thể tham gia hoạt động trong tổ chức Công đoàn và 54,0% mong muốn được tham gia vào các hoạt động của tổ chức công đoàn tại doanh nghiệp. Ngoài ra, nếu thành lập được các tổ chức đại diện cho người lao động trong các doanh nghiệp thì TNCN cũng kỳ vọng có thể liên kết với các tổ chức đại diện người lao động ở nhiều doanh nghiệp trên cùng địa bàn và địa bàn khác 37,9% và 33,5% với kỳ vọng là có nhiều chương trình thiết thực dành cho người lao động.
Thứ hai: Tập trung giải quyết những khó khăn trong đời sống sinh hoạt của TNCN: Để giải quyết những vấn đề khó khăn trong đời sống sinh hoạt hiện tại, kết quả khảo sát cho thấy, cần tập trung vào một số hoạt động trọng tâm sau đây: Khuyến khích mở các cửa hàng bình ổn giá tại KCN, KCX (58,0%); bắt buộc chủ nhà trọ phải công khai niêm yết giá điện, nước sinh hoạt (57,6%); xây dựng các trung tâm hỗ trợ lao động di cư (57,1%). Ngoài ra, sự chăm lo nhằm nâng cao về đời sống tinh thần cũng là vấn đề cần được quan tâm trong thời gian tới đối với TNCN. Doanh nghiệp, địa phương, tổ chức đoàn thể nơi thanh niên đang sống và làm việc cần tăng cường tổ chức nhiều hơn các hoạt động kết bạn, giao lưu giúp TNCN tìm kiếm người yêu, bạn đời (40,0%). Trên thực tế, TNCN, nhất là TNCN đang gặp nhiều khó khăn, hạn chế trong giao lưu, kết bạn bởi thời gian làm việc quá dài cũng như do đời sống khó khăn, thu nhập thấp nên các chi phí và thời gian dành cho các hoạt động trên là khá hạn chế.
Về các điều kiện đặt ra đối với các khu nhà ở xã hội, khu lưu trú dành cho công nhân, kết quả điều tra cho thấy, các khu nhà ở xã hội, khu lưu trú cần phải đảm bảo đầy đủ các điều kiện không chỉ về vị trí địa lý, điều kiện sinh hoạt mà còn phải đảm bảo cả về cơ chế quản lý nhà trọ và người thuê trọ (những lựa chọn của thanh niên dao động từ 59,3% đến 66,4%).
Kết quả điều tra về những giải pháp giải quyết những khó khăn trong lĩnh vực phúc lợi và an sinh xã hội của TNCN hiện nay tập trung chủ yếu vào những vấn đề sau: Thực hiện chính sách ưu đãi cho các doanh nghiệp xây dựng bệnh viện, phòng khám, nhà trẻ, trường học, cung cấp dịch vụ giao thông, vận tải gần KCN, KCX (59,6%); Nhân rộng mô hình trường mầm non nhận trông trẻ cho cha mẹ làm ca đêm tại các KCN, KCX (55,8%); Tổ chức thường xuyên các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao cho công nhân (32,4%); Tổ chức các hoạt động tư vấn pháp luật, nhất là những vấn đề chính sách liên quan đến BHYT, BHTN, BHXH… (31,8%).
Ngoài ra, mặc dù với tỉ lệ chọn của TNCN không cao (dưới 20,0%) song việc phát triển các trung tâm hoạt động văn hoá, thể thao tại các KCN, KCX và phát triển các cơ sở trường học, dịch vụ y tế… tại các địa phương có KCN, KCX cũng là một trong những gợi ý cần được quan tâm do nó ảnh hưởng trực tiếp đến tâm trạng, tư tưởng và đời sống của thanh niên trong quá trình sinh sống và làm việc tại thành phố.
Thứ ba: Khuyến khích và đảm bảo quyền lợi cho người lao động khi tham gia bảo hiểm xã hội và bảo hiểm xã hội tự nguyện: Để người lao động nắm rõ những thông tin về bảo hiểm xã hội, thời gian tới, cần tập trung vào một số hoạt động trọng tâm theo ý kiến của thanh niên gồm: Các tổ chức đoàn thể như Đoàn thanh niên, Hội Phụ nữ… vào cuộc hỗ trợ tuyên truyền (49,6%); Đơn giản hóa các thủ tục hành chính (36,2%); Xây dựng đề án tăng cường hỗ trợ người dân tham gia BHXH(34,5%); Tuyên truyền về BHXH sâu rộng hơn (33,3%). Như vậy, để nâng cao khả năng tiếp cận và nắm rõ những thông tin về BHXH, cần có những giải pháp đồng bộ từ tuyên truyền nâng cao nhận thức cho thanh niên đến việc hoàn thiện hơn nữa quy trình thực hiện chính sách (thủ tục hành chính; yếu tố con người).
Thời gian tới, cần có những thay đổi về cách thức thực hiện hoặc bổ sung các chế độ hỗ trợ của loại bảo hiểm này như: Rút ngắn thời gian đóng bảo hiểm để nhận lương hưu (56,7%); bổ sung chế độ ốm đau, thai sản, hoặc chế độ tai nạn khi làm việc... Ngoài ra, để người lao động hiểu rõ hơn những thông tin về bảo hiểm xã hội, có thể thực hiện nhiều biện pháp đồng bộ như: Kêu gọi sự tham gia, giúp sức vận động của các tổ chức đoàn thể trong tuyên truyền về bảo hiểm xã hội (49,6%); đơn giản hóa các thủ tục hành chính (36,2%); xây dựng các đề án tăng cường hỗ trợ người dân tham gia BHXH (34,5%).
Kết luận
Như vậy, bài viết đã bước đầu nhận diện, đánh giá mức độ tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của TNCN trong các KCN,KCX hiện nay trong các lĩnh vực: Nhà ở, sinh hoạt; việc làm; chăm sóc y tế... Đồng thời bài viết cũng đã chỉ ra được những khó khăn mà TNCN hiện nay đang gặp phải trong quá trình làm việc, sinh sống cũng như những mong muốn của họ. Những đề xuất được nêu trong bài viết sẽ là những căn cứ khoa học quan trọng cho các nhà quản lý, các tổ chức xã hội, các doanh nghiệp... hiểu được TNCN, cũng như là căn cứ để xây dựng, đề xuất những chính sách, cơ chế, hỗ trợ kịp thời cho TNCN để họ và gia đình đảm bảo được cuộc sống, yên tâm lao động, sáng tạo.
Trên đây là một số vấn đề mà nhóm tác giả mong muốn mang đến Hội thảo để chúng ta cùng có những bàn luận, chia sẻ sâu sắc hơn về một vấn đề tuy không cũ nhưng lúc nào cũng mang tính thời sự này.
TS. Đỗ Ngọc Hà
TS. Nguyễn Tuấn Anh
Viện Nghiên cứu Thanh niên
Theo Tạp chí Tri thức Xanh - Số 30 - 20
Tin tức liên quan
- Quyết tâm loại bỏ cán bộ tha hóa, biến chất, bội ước với Đảng, với Nhân dân (03:06 18/04/2023)
- Bảo đảm quyền tiếp cận thông tin trong xét xử vụ án hành chính ở Việt Nam (08:58 07/03/2023)
- Quan điểm Hồ Chí Minh về văn hóa năm 1943-nhìn từ hôm nay (02:12 28/02/2023)
- Ra mắt cuốn sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực (04:16 03/02/2023)
- Ra mắt bộ sách thường thức chính trị (04:10 03/02/2023)