TẠP CHÍ TRI THỨC XANH - CƠ QUAN LÝ LUẬN CỦA VIỆN KHOA HỌC MÔI TRƯỜNG VÀ XÃ HỘI

E-mail:info@ttxonline.vn -  Hotline: 0948565689
thứ bảy, 16/11/2024

Bài học nào từ COVID-19 có thể áp dụng để giải quyết những thách thức về khí hậu và môi trường ở Việt Nam (kỳ 2)

14:14 21/07/2021
Logo header Kỳ 2: Tại sao tiến độ xử lý thách thức biến đổi khí hậu lại chậm như vậy? Những thách thức về thiên tai và khí hậu đã trở thành ưu tiên hàng đầu của các nhà hoạch định chính sách tại Việt Nam. Điều này được thể hiện trong các chiến lược quốc gia và ngành, và những thách thức đó được cũng xác định là một trong những trụ cột chính trong chiến lược phát triển đất nước trong mười năm tới. Tuy nhiên hiện nay tiến độ thực hiện các chính sách liên quan đến biến đổi khí hậu còn triển khai khá chậm.

Rủi ro thiên tai và khí hậu đến nay đã được thừa nhận là mối đe dọa trực tiếp cho khát vọng đưa Việt Nam trở thành quốc gia thu nhập cao. Thiệt hại trực tiếp và gián tiếp do thiên tai gây ra ảnh hưởng không chỉ đến khả năng chống chịu (ứng phó với thảm họa) và tính bền vững (không làm nguy hại đến tương lai) của nền kinh tế, mà còn đến năng lực duy trì tốc độ tăng trưởng nhanh và bao trùm. Chẳng hạn, phát triển nhanh cơ sở hạ tầng mà không cân nhắc những rủi ro về thiên tai và khí hậu đang làm gia tăng nhanh chóng và dễ bị tổn thương với các hiện tượng tự nhiên bất lợi. Với mức tăng dự kiến lên đến 265% trong 10 năm tới, thiệt hại trực tiếp do thiên tai gây ra bình quân hàng năm riêng ở các tỉnh vùng duyên hải được kỳ vọng sẽ tăng lên đến 4,2 tỷ US$ mỗi năm. Đồng thời, những thành quả phát triển cũng có thể bị xói mòn bởi những tổn thất về người; cơ sở sản xuất kinh doanh, đất canh tác và cơ sở hạ tầng bị phá hủy; năng suất lao động và sản lượng nông nghiệp suy giảm; thất thu thuế; ngân sách nhà nước căng thẳng do phải chi tiêu cho hoạt động cứu trợ và tái thiết. Điển hình là nông dân ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long đã ghi nhận sản lượng nông nghiệp giảm do phương thức phát triển nghèo nàn, trong đó có yếu kém trong quản lý tài nguyên nước và đất đai bạc màu.

Tác động của suy thoái môi trường đến người dân cũng đang trở nên rõ ràng hơn. Nhiều người lao động và sinh viên làm việc và học tập kém năng suất hơn do tác động tiêu cực của ô nhiễm không khí và nguồn nước đến sức khỏe của họ, chẳng hạn trên 1 triệu người bị ngộ độc nước ở Hà Nội vào tháng 10 năm 2019. Tác động của cả thiên tai và suy thoái môi trường được cho là gây ảnh hưởng nhiều hơn đến người nghèo và người yếu thế, những người không có nhiều cơ chế ứng phó - như nguồn lực tài chính - để tự vệ, và họ thường sinh sống ở những nơi dễ bị ảnh hưởng bởi thiên tai. Chẳng hạn, đến năm 2030, trên 400.000 người dân ở Việt Nam có thể rơi vào tình trạng nghèo cùng cực do những hệ quả ngoài ý muốn liên quan đến biến đổi khí hậu.

Cho dù cam kết ở mức cao, nhưng tiến triển cụ thể vẫn còn mờ nhạt. Nhiều cải cách tham vọng được vạch ra trong các chiến lược vẫn chưa biến thành hành động cụ thể và kết quả hữu hình. Ngược lại, hầu hết các chỉ số về môi trường vẫn tiếp tục xấu đi, được thể hiện qua các ngư trường và rừng liên tục bị khai thác quá mức, cũng như mức độ ô nhiễm không khí tăng lên trong những năm gần đây. Điều đáng lo ngại không kém là mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính của Việt Nam như trong cam kết tại Hiệp định Khí hậu Pa-ri gần đây đã được điều chỉnh giảm (mặc dù có bằng chứng rõ ràng cho thấy mục tiêu đề ra trước đó có thể hoàn thành bằng cách tiếp tục đầu tư cho sản xuất năng lượng sạch hơn). Bên cạnh đó, giá cả hầu hết các dịch vụ cơ sở hạ tầng (năng lượng, nước sạch và rác thải) chưa được điều chỉnh theo chi phí cung ứng, dẫn đến những hành vi lãng phí từ phía cả nhà cung cấp và người tiêu dùng.

Tương tự, thiệt hại hàng năm do thiên tai gây ra đang tăng lên nhanh chóng do phát triển không quy hoạch và thiếu sự quản lý của nhà nước cũng như do quản lý tài nguyên yếu kém. Chẳng hạn, quản lý tài nguyên nước chưa tốt ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long dẫn đến xâm nhập mặn ở mức cao, gây thiệt hại đáng kể cho hệ thực vật và đất nông nghiệp – một xu hướng chắc chắn vẫn còn tiếp diễn. Cho dù rủi ro không thể được loại bỏ hoàn toàn trong quá trình phát triển, nhưng lồng ghép các yếu tố rủi ro thiên tai và khí hậu vào trong sự phát triển tương lai là cách giúp làm phẳng đường cong tổn thất. Để làm được điều đó, Việt Nam cần áp dụng lời nói đi đôi với việc làm, không chỉ cam kết mà phải triển khai thực hiện những cải cách và chuyển đổi nghiêm túc sao cho giảm quá trình suy thoái môi trường đang tiếp tục xảy ra, làm chậm lại tốc độ tăng thiệt hại hàng năm do thiên tai gây ra. Mặc dù điều này đòi hỏi phải có nguồn lực tài chính tương xứng với thách thức cần phải được giải quyết, nhưng đó cũng là cơ hội để đổi mới sáng tạo và khai thác nguồn vốn nhân lực và vật lực của quốc gia theo cách hướng tới tương lai và có khả năng chống chịu với khí hậu.

Có nhiều lý do dẫn đến chậm trễ trong triển khai thực hiện nghị trình về rủi ro thiên tai và khí hậu ở Việt Nam. Lý do rõ nhất là vấn đề giảm nhẹ rủi ro khí hậu chưa sớm được quán triệt do bất cân xứng về thời gian giữa lợi ích và chi phí. Lợi ích của các can thiệp sẽ tăng dần theo thời gian, trong khi chi phí thì phải bỏ ra ngay. Ví dụ, hầu hết tác động của việc xả thải không ảnh hưởng đến những người đang có hoạt động xả thải, mà ảnh hưởng đến các thế hệ tương lai, nhưng chi phí tương lai đó lại không được phản ánh trong giá cả hiện hành. Vì vậy, tác động bất lợi của khí nhà kính có tính chất “ngoại ứng” với thị trường, nghĩa là doanh nghiệp và người tiêu dùng giảm phát thải chỉ vì lý do đạo đức chứ không phải vì động cơ kinh tế. Hệ quả là hiện tượng thất bại thị trường vì khí nhà kính thải ra quá mức, còn các cá nhân vẫn thờ ơ hoặc trì hoãn các quyết định để nâng cao nhận thức về khí hậu/môi trường, nhất là khi chưa rõ về phí tổn của việc không cần hành động.Tại Việt Nam, nhiều cá nhân có thể không đầu tư ban đầu cho công nghệ mới và sạch hơn do hạn chế về tài chính hoặc do rào cản quy định. Mặc dù tư duy như vậy có thể phù hợp cách đây 10 hoặc 20 năm, nhưng ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy biến đổi khí hậu đang diễn ra, ảnh hưởng đến năng suất và sức khỏe của cộng đồng khắp thế giới, đồng thời gây ra những thiệt hại về tài chính đáng kể cho họ (chẳng hạn tại vùng duyên hải miền trung của Việt Nam năm 2020). Các cộng đồng và các hộ gia đình đang phải hứng chịu những thiệt hại đó, và chúng cũng đã có tác động lan truyền đến các thế hệ tương lai.

Một thất bại thị trường nữa là các cá nhân có xu hướng đầu tư thấp hơn mức cần thiết nếu nhìn trên góc độ tập thể, vì lợi ích của cá nhân thấp hơn lợi ích của xã hội. Ví dụ, một hộ gia đình sẽ không đầu tư vào năng lượng mặt trời vì lợi ích cho bản thân họ thấp hơn lợi ích cho xã hội nói chung. Ngược lại, cũng hộ gia đình đó có thể đợi cho các hộ gia khác đầu tư vào công nghệ hiện đại này trước, và nhờ đó, hưởng lợi từ không khí sạch hơn. Vì những thách thức về môi trường không dừng lại ở biên giới quốc gia (chẳng hạn, chất thải nhựa trôi dạt giữa các đại dương), nên nền kinh tế xanh cũng có yếu tố quốc tế. Một thất bại thị trường có liên quan nữa là nhiều cá nhân ít được tiếp cận thông tin công khai hoặc không có năng lực để phân tích thông tin. Tóm lại, những thất bại thị trường trên là lý do Chính phủ phải can thiệp vì quản lý tài nguyên và môi trường vừa là hàng hóa công cộng, vừa là hàng hóa toàn cầu.

Thất bại thị trường thứ ba là thị trường không phải lúc nào cũng tính đến mức giá đúng của tài nguyên do khó xác định những rủi ro liên quan đến thiên tai hoặc các hiện tượng khác. Ví dụ, thị trường đất đai và bất động sản cần phản ánh nguy cơ với các hiện tượng tự nhiên bất lợi tại một địa điểm. Trong một số trường hợp, nhất là ở những địa bàn nghèo, giá đất và bất động sản được xác định tương xứng với nguy cơ tai biến tự nhiên và tai biến môi trường. Nhưng nguy cơ với các hiện tượng tự nhiên bất lợi của các dự án phát triển đất đai mới thường không được cân nhắc khi lựa chọn địa điểm hoặc tính đến trong giá bất động sản. Trong thực tế, nhiều khi người ta còn chạy theo hướng ngược lại, đầu tư phát triển các khu đất có nguy cơ thiên tai cao nhất thường ít tốn kém nhất do mật độ dân số ở đây hiện còn thấp - do có mức độ rủi ro về ngập lụt và bão gió cao.

Mặc dù ba “thất bại thị trường”nêu trên có thể giúp chúng ta hiểu thêm tại sao các cá nhân (hộ gia đình và doanh nghiệp) chưa thay đổi hành vi để thích ứng với rủi ro thiên tai một cách đầy đủ, nhưng đó không phải là lời giải thích duy nhất. Vì chính phủ các quốc gia đến nay đều hiểu rõ những thất bại trên, câu hỏi thực sự là tại sao chúng vẫn chưa được khắc phục. Chúng tôi cho rằng một phần câu trả lời nằm trong chính cách hành xử của chính phủ, chẳng hạn như thiếu ý chí chính trị và sự cấp thiết. Tại Việt Nam, các cấp có thẩm quyền còn thiếu cơ chế hiệu quả cần thiết để điều phối quá trình ra quyết định, mặc dù các chính sách về thiên tai và khí hậu thường đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ ngành trung ương, giữa trung ương và địa phương. Việc triển khai thực hiện những cải cách về thiên tai, khí hậu chậm và không đồng đều cũng do quy định còn yếu, hiệu lực thực thi kém vì thiếu chế tài và các biện pháp kiểm soát. Cuối cùng, Nhà nước chưa tuân theo “các quy tắc xanh” trong hoạt động đầu tư, nhất là tại các doanh nghiệp nhà nước, hiện là một trong những nguồn chính gây ô nhiễm không khí, cũng như trong quá trình lựa chọn dự án và nhà thầu.

Tìm hiểu về bài học triển khai thành công các biện pháp liên quan đến Covid-19

Khác với những thách thức về thiên tai và khí hậu, đại dịch COVID-19 được xử lý rất tốt ở Việt Nam bằng các biện pháp chủ động và kịp thời. Đó không phải là nói quá vì đến cuối tháng 7, khi làn sóng dịch thứ hai bùng phát, Việt Nam đã thành công trong việc tiếp tục làm phẳng đường cong lây nhiễm COVID-19 bằng cách triển khai ba tuần giãn cách có điều kiện, theo dõi và xét nghiệm. Kinh nghiệm triển khai những biện pháp đúng đắn và đúng thời điểm cần được quan tâm hơn nữa, vì nó có thể truyền cảm hứng cho các nhà hoạch định chính sách thực hiện cam kết xử lý những thách thức về khí hậu và môi trường.

Các biện pháp cụ thể được các cấp có thẩm quyền ở Việt Nam triển khai để chống dịch vi-rút cô-rô-na nhận được nhiều sự quan tâm của báo chí trong nước và quốc tế một cách xứng đáng. Báo chí đã chỉ ra sự kết hợp của (i) mức độ sẵn sàng trước khi có đại dịch, (ii) khả năng phản ứng nhanh và quyết liệt của Chính phủ khi đại dịch mới bùng phát, thông qua đóng cửa trường học và biên giới, và (iii) chiến lược khoanh vùng, truy vết và xét nghiệm ở các địa bàn bị ảnh hưởng nhất. Mục tiêu ở đây là tìm hiểu rõ hơn lý do tại sao Chính phủ có thể triển khai thực hiện những biện pháp trên hiệu quả và cương quyết đến vậy, trong khi nhiều quốc gia khác còn đang lúng túng. Các nghiên cứu kinh tế gần đây về thể chế liên hệ năng lực triển khai thực hiện của Chính phủ với ba yếu tố chính: (i) tầm nhìn (lên kế hoạch và chỉ đạo), (ii) năng lực (nguồn lực tài chính và kỹ thuật, khả năng điều phối), và (iii) động lực (cơ chế đảm bảo trách nhiệm giải trình và chia sẻ thông tin). Trực quan mà nói, tầm nhìn càng rõ, năng lực và động lực càng lớn, thì khả năng các biện pháp đó triển khai hiệu quả cũng càng lớn.

Trong suốt quá trình kiểm soát khủng hoảng COVID-19, Chính phủ thực hiện tốt nhiệm vụ của mình ở cả ba yếu tố trên .Tầm nhìn được định hình bằng sự chỉ đạo mạnh mẽ ngay từ đầu, khi chỉ một tuần sau khi ca nhiễm đầu tiên được xác nhận vào cuối tháng 1, Thủ tướng Chính phủ đã thành lập Ban Chỉ đạo Quốc gia để điều phối “các cấp các ngành trên toàn quốc” ứng phó với dịch COVID-19 bùng phát. Ủy ban do một Phó Thủ tướng đứng đầu và dựa vào sự tham gia của các bộ ngành chuyên môn (Bộ Y tế) và tài chính (Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư), qua đó Chính phủ có thể phối hợp hành động và lên kế hoạch ở cấp trung ương. Về tổng thể, Chính phủ đã được chuẩn bị tốt nhờ vào kinh nghiệm tích lũy qua các đại dịch trước đó, điển hình là dịch SARS năm 2003. Đến cuối năm 2019, Việt Nam đứng thứ 59 trên 190 quốc gia trong Chỉ số An ninh Y tế Toàn cầu, cao hơn nhiều so với các quốc gia có trình độ phát triển kinh tế tương đương.

Liên quan đến yếu tố thứ hai là năng lực, các cấp có thẩm quyền đã có khả năng xác định được nguồn nhân lực và tài lực phù hợp. Nguồn lực trong nội bộ được nhanh chóng huy động để chống lại đại dịch nhờ tích lũy được một lượng dự trữ tài chính lớn và có quỹ dự phòng được trích từ ngân sách nhà nước hàng năm. Những nguồn lực đó được phân bổ nhằm đảm bảo tập trung ứng phó về y tế và gói hỗ trợ tài khóa được thông qua vào đầu tháng 4 để bảo vệ những người dân và doanh nghiệp bị ảnh hưởng nặng nề nhất. Dần dần, một phần lớn hơn trong lượng dự trữ được sử dụng để đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án đầu tư công, coi đó là công cụ chính sách chính để kích thích khôi phục kinh tế tại Việt Nam. Để tăng cường nhân lực trong giai đoạn đại dịch, Chính phủ đã hành động trên hai mặt trận. Đầu tiên là tạo hiệu quả kinh tế theo quy mô bằng cách tập trung các chuyên gia y tế tại một số điểm nóng - khéo léo khắc phục sự hạn chế về số lượng chuyên gia trong nước (chẳng hạn, số y bác sỹ trên đầu người tại Việt Nam ít hơn Nhật Bản đến ba lần). Thứ hai, các cấp có thẩm quyền huy động sự hỗ trợ của toàn xã hội, bao gồm lực lượng quân đội và sinh viên. Những người lính được huy động cho sự nghiệp công và giúp giám sát những người trở về từ vùng dịch. Khu vực tư nhân cũng có những sáng kiến như cây “ATM gạo” nổi tiếng, cung cấp lương thực, thực phẩm cho những hộ gia đình khó khăn nhất ở các đô thị lớn.

Năng lực cũng được nâng cao qua nỗ lực phối hợp hành động giữa trung ương và địa phương. Tổ công tác quốc gia giao cho các tỉnh thẩm quyền thực hiện phong tỏa cấp thôn tổ và xã phường, theo thông báo của Bộ Y tế. Các tỉnh cũng được phép lập các chốt kiểm soát ra vào những địa điểm bị phong tỏa và thiết lập các điểm xét nghiệm và điều trị y tế ở địa phương. Các biện pháp thực tế trên đã thay thế cho những cơ chế trao đổi thông tin truyền thống, mất thời gian nhưng không phải lúc nào cũng hiệu quả, giữa trung ương và địa phương.

Bảng 1. Chất lượng ứng phó COVID-19 là sự kết hợp giữa tầm nhìn, năng lực và động lực

Động lực —yếu tố thứ ba — có được nhờ thế mạnh đoàn kết và hiệu lực thực thi truyền thống của Chính phủ, kết hợp với quyết tâm đổi mới sáng tạo thông qua áp dụng các công nghệ số hiện đại. Ngay từ đầu, các cấp có thẩm quyền đã nhận thức được yêu cầu cần phải xây dựng cơ chế báo cáo tốt để theo dõi các ca nhiễm và nghi nhiễm. Điều này được thực hiện nhờ vào hệ thống báo cáo trực tuyến mới. Thông qua hệ thống, Bộ Y tế có thể thu thập thông tin nhanh chóng và cập nhật, gần sát thời gian thực. Nỗ lực ban đầu đó được củng cố vào giữa tháng 4, khi một doanh nghiệp an ninh mạng của Việt Nam ra mắt ứng dụng di động sử dụng giao thức Bluetooth có khả năng thông báo cho người dùng trong trường hợp trong bán kính khoảng 6 bước chân (2m) có một ca nhiễm đã được xác nhận trong vòng 14 ngày. Khi người dùng nhận thông báo về nguy cơ đó, họ được khuyến khích liên hệ với nhân viên y tế ngay lập tức.

Bên cạnh thực hiện tốt theo dõi và báo cáo nội bộ, động lực còn được củng cố nhờ khả năng kết hợp khéo léo giữa ưu đãi và chế tài. Về ưu đãi, các cấp có thẩm quyền chia sẻ thông tin thu thập được qua hệ thống báo cáo nội bộ cho đông đảo mọi người, bao gồm cả qua cổng thông tin điện tử của Bộ Y tế. Động thái này, mặc dù ít thấy ở Việt Nam, đã giúp phát đi những tín hiệu đúng đắn tới người dân, để họ chấp nhận các biện pháp phòng, chống dịch và điều chỉnh hành vi phù hợp. Thông qua công bố thông tin về diễn biến dịch bệnh, Chính phủ đã nâng cao tinh thần đoàn kết và trách nhiệm giải trình, mà điều này lại được củng cố bằng những kết quả tốt đạt được nhờ chính những biện pháp đó. Đúng như dự kiến ở Việt Nam, để thực thi hiệu quả các biện pháp cách ly và giãn cách xã hội, các cấp có thẩm quyền đã phải dựa vào hệ thống đảng bộ và mạng lưới cơ sở truyền thống. Hệ thống giám sát này được bổ sung bằng việc yêu cầu tất cả mọi người phải đeo khẩu trang tại nơi công cộng để bảo vệ bản thân và những người khác từ ngày 16 tháng 3 năm 2020. Đây không chỉ là khuyến cáo mà là quy định bắt buộc người dân phải thực hiện theo. Mạng xã hội được giám sát và các chế tài xử phạt được đặt ra để ngăn chặn tin giả và hành vi chống đối.

Thông tin truyền thông một cách khéo léo đã có những đóng góp vào việc triển khai thực hiện các biện pháp phòng, chống COVID-19. Cũng theo cách truyền thống, Nhà nước kêu gọi chống dịch như chống giặc ngoại xâm và kêu gọi toàn dân đoàn kết đánh bại dịch bệnh, gợi lại lịch sử lâu đời của dân tộc luôn bị đe dọa bởi giặc ngoại xâm. Mặc dù vậy, các cấp có thẩm quyền cũng rất sáng tạo khi sử dụng cả những phương thức phi truyền thống để khích lệ người dân, như bằng một bài hát được xem đến trên 32 triệu lượt trên YouTube. Các cấp có thẩm quyền còn liên tục cập nhật thông tin cho người dân bằng cách gửi trên 6 triệu tin nhắn qua điện thoại di động và ra mắt một ứng dụng di động gọi là “NCOVI.” Biểu mẫu khai báo y tế điện tử cũng sớm được ban hành trên nền tảng số của Chính phủ ngay từ đầu. Nhờ minh bạch và đổi mới sáng tạo trong thông tin và truyền thông tới công chúng, Chính phủ đã lấy được và duy trì được lòng tin của người dân về khả năng ứng phó với khủng hoảng. Theo khảo sát của Dalia Research tại 45 quốc gia về quan điểm của người dân với cách Chính phủ ứng phó với đại dịch, Việt Nam có thứ hạng tốt hơn so với các quốc gia “mô hình kiểu mẫu” khác như Sing-ga-po và Hàn Quốc, với 62% người Việt Nam tham gia khảo sát có quan điểm là Chính phủ đang làm “đúng mức.”

Phan Sáng

( Tổng hợp từ báo cáo “Điểm lại – Từ Covid 19 đến biến đổi khí hậu”
của Ngân hàng Thế giới 2020)

Theo Tri thức Xanh Số 70-21

Bình luận: 0