TẠP CHÍ TRI THỨC XANH - CƠ QUAN LÝ LUẬN CỦA VIỆN KHOA HỌC MÔI TRƯỜNG VÀ XÃ HỘI

E-mail:info@ttxonline.vn -  Hotline: 0948565689
thứ tư, 30/10/2024

Phát triển kinh tế biển gắn với bền vững và thích ứng với biến đổi khí hậu

21:46 29/06/2022
Logo header Sau 02 ngày làm việc, Hội nghị quốc tế về “Kinh tế đại dương bền vững và thích ứng với biến đổi khí hậu” đã đưa ra 5 cam kết quan trọng về phát triển kinh tế biển xanh bền vững có khả năng chống chịu trước các thách thức và rủi ro an ninh liên quan đến khí hậu.

Những cam kết trong phát triển kinh tế biển xanh bền vững

Từ ngày 12 - 13/5/2022, tại Hà Nội đã diễn ra Hội nghị quốc tế về “Kinh tế đại dương bền vững và thích ứng với biến đổi khí hậu” dưới hình thức trực tuyến kết hợp trực tiếp, quy tụ hơn 400 đại biểu đến từ 70 quốc gia, bao gồm các nhà lãnh đạo, chuyên môn, khoa học; các tổ chức phi chính phủ, tổ chức xã hội, tổ chức tài chính, trung tâm nghiên cứu toàn cầu. Chủ đề chính của Hội nghị là Giải pháp cho một nền kinh tế biển bền vững và có khả năng chống chịu” tập trung vào 5 chủ đề chính: Phục hồi kinh tế biển xanh hậu COVID-19 và hướng tới nền Kinh tế đại dương xanh và bền vững; Quy hoạch không gian biển và xây dựng các thành phố ven biển và hạ tầng có khả năng chống chịu với biến đổi khí hậu; Chống ô nhiễm biển và rác thải nhựa đại dương: Thách thức chính của thế kỷ 21; An ninh khí hậu, giới và khả năng chống chịu của các cộng đồng dễ bị tổn thương và Tài chính cho khí hậu và các đại dương.

Hội nghị diễn ra trong bối cảnh hết sức đặc biệt khi thế giới đang hướng tới hưởng ứng Ngày Đại dương thế giới năm 2022 với chủ đề “Hồi sinh: cùng hành động vì đại dương” ; Việt Nam cũng như các nước trên thế giới đang khẩn trương triển khai các cam kết về khí hậu tại COP 26 vừa qua. Phát biểu tại lễ khai mạc Hội nghị, Phó Thủ tướng Lê Văn Thành khẳng định “phát triển kinh tế đại dương bền vững, hạn chế và thích ứng với biến đổi khí hậu là mệnh lệnh của tất cả chúng ta, thể hiện mối quan tâm chung của nhân loại và chỉ có thể đạt được trên cơ sở hợp tác, đoàn kết toàn cầu, tôn trọng chủ quyền và lợi ích của mỗi quốc gia, phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982”.

Thủ tướng cũng đã đề nghị tất cả các quốc gia cần cam kết mạnh mẽ và có những biện pháp quyết liệt, hiệu quả hơn nữa để thể hiện trách nhiệm của mình vì sự phát triển bền vững kinh tế đại dương. Đây không chỉ là trách nhiệm đối với sự sinh tồn của cộng đồng dân cư của mỗi quốc gia, mà còn là trách nhiệm đối với sự tồn vong của hệ sinh thái biển, của thiên nhiên, nơi nắm giữ chìa khóa dẫn tới sự thịnh vượng của nhân loại trên Trái đất. Cùng với đó, cần thiết lập một hệ thống toàn cầu nhằm giám sát, chia sẻ dữ liệu, cung cấp cơ sở khoa học về rác thải nhựa đại dương từ phạm vi quốc gia, khu vực và toàn thế giới; khắc phục bằng được những thách thức trong nỗ lực giải quyết ô nhiễm rác thải nhựa đại dương ở quy mô toàn cầu trong giai đoạn tới.

Hội nghị gồm 4 phiên toàn thể: Phiên khai mạc; Phiên toàn thể về Rủi ro an ninh liên quan đến khí hậu; Phiên toàn thể đặc biệt về Giải quyết vấn đề ô nhiễm đại dương và Rác thải nhựa đại dương về Một thách thức lớn của thế kỷ 21 và phiên Bế mạc. Bên cạnh các phiên toàn thể và phiên chuyên đề, có các các cuộc họp và sự kiện bên lề đáng chú ý bao gồm: Công bố Báo cáo kinh tế biển xanh - Hướng đến phát triển bền vững kinh tế biển; Mô hình nhà chống bão, lũ - Bài học kinh nghiệm từ miền Trung Việt Nam; Triển lãm đóng góp của doanh nghiệp và các sáng kiến khác cho kinh tế đại dương bền vững và thích ứng với biến đổi khí hậu.

Tại Hội nghị các bên đã cùng nhau đưa ra 5 cam kết”

 Một là, kiến tạo chính sách và môi trường pháp lý quốc tế cho một nền kinh tế biển bền vững và thích ứng với biến đổi khí hậu, đặc biệt với các nước và các bên liên quan dễ bị tổn thương.

Hai là, thiết lập hệ thống cơ sở dữ liệu toàn diện do Liên hợp quốc quản lý về tác động đa chiều của biến đổi khí hậu, của nước biển dâng, của rác thải nhựa nhằm hỗ trợ xây dựng chính sách ứng phó toàn cầu.

Ba là, giải quyết các thách thức và rủi ro an ninh liên quan đến biến đổi khí hậu thông qua thúc đẩy và xây dựng các cơ chế hợp tác an ninh toàn cầu và khu vực thiết thực và hiệu quả, có tính đến các yếu tố về kinh tế, xã hội, tâm lý, giới và các khía cạnh khác.

Bốn là, tăng cường khả năng phục hồi phát triển kinh tế biển bền vững sau COVID-19 và khả năng thích ứng của các quốc gia, cộng đồng và các bên liên quan dễ bị tổn thương, bao gồm các hộ nông dân sản xuất nhỏ và ngư dân, để xây dựng và phát triển các ngành kinh tế biển quan trọng như giao thông vận tải biển, nuôi trồng và đánh bắt thủy hải sản, du lịch biển/ven biển, và các nguồn năng lượng tái tạo.

Năm là, khuyến khích đầu tư, nghiên cứu, phát triển và chuyển giao công nghệ biển, chuyển sang sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo biển xanh mới và giám sát quản lý sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên biển, nâng cao nhận thức về kinh tế biển bền vững, sự tham gia rộng rãi của các bên trong xây dựng  quyết định và chính sách về kinh tế biển bền vững.

Bà Caitlin Wiesen, Trưởng đại diện thường trú UNDP tại Việt Nam tại lễ công bố báo cáo

Báo cáo kinh tế biển xanh - Hướng đến phát triển bền vững kinh tế biển

Nghị quyết 36 của TƯ về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 nêu rõ “ Phát triển bền vững kinh tế biển trên nền tảng tăng trưởng xanh, bảo tồn đa dạng sinh học, các hệ sinh thái biển; bảo đảm hài hoà giữa các hệ sinh thái kinh tế và tự nhiên, giữa bảo tồn và phát triển, giữa lợi ích của địa phương có biển và địa phương không có biển; tăng cường liên kết, cơ cấu lại các ngành, lĩnh vực theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh; phát huy tiềm năng, lợi thế của biển, tạo động lực phát triển kinh tế đất nước”.

Báo cáo Kinh tế biển xanh - Hướng đến phát triển bền vững kinh tế biển là một trong những nghiên cứu đầu tiên ở Việt Nam về phát triển kinh tế biển sử dụng khái niệm kinh tế biển xanh, đưa ra các kịch bản phát triển kinh tế biển cho Việt Nam gồm sáu lĩnh vực kinh tế biển chủ chốt: Ngư nghiệp, năng lượng tái tạo, dầu khí, du lịch, giao thông vận tải, môi trường và hệ sinh thái. Một số kịch bản đến năm 2030 đã được phát triển cho từng ngành, lĩnh vực bao gồm kịch bản cơ sở và kịch bản "phát triển bền vững" hay còn gọi là "xanh lam", phù hợp và bám sát khái niệm kinh tế xanh và kinh tế biển xanh. 

Hiện nay, Việt Nam có đường bờ biển dài hơn 3.260 km chưa bao gồm các đảo chạy dọc từ Móng Cái ở phía Bắc tới Hà Tiên ở phía Tây Nam, dân số 28 tỉnh, thành phố ven biển chiếm gần 50% dân số của cả nước. Quy mô kinh tế (GDP) biển và vùng ven biển Việt Nam bình quân đạt khoảng 47 - 48% GDP cả nước, trong đó GDP của kinh tế thuần biển đạt khoảng 20 - 22% tổng GDP cả nước. Tuy nhiên theo kịch bản xanh lam, một khi kịch bản này được đưa vào áp dụng có thể giúp GDP sẽ tăng trưởng hơn kịch bản cơ sở 296 ngàn tỷ đồng (12,9 tỷ USD) vào năm 2025 và 538 ngàn tỷ đồng (23,5 tỷ USD) vào năm 2030. Theo đó để đạt được các mục tiêu nên trên đẩy nhanh quy hoạch không gian biển và các chính sách là cần thiết để khai thác tiềm năng to lớn của ngành kinh tế biển; phát triển năng lượng tái tạo trên  biển; thay đổi phương thức khai thác, nuôi trồng thuỷ sản theo hướng bền vững hơn, thân thiện với môi trường hơn; đặt ngành thuỷ sản trong mối quan hệ tác động qua lại, liên đới với nhiều ngành nghề khác.

Mặc dù Việt Nam có nhiều tiềm năng để phát triển kinh tế biển tuy nhiên chúng ta cũng phải đối mặt với nhiều thách thức từ sự biến đổi khí hậu của Trái đất, sự cạn kiệt tài nguyên biển, sự ô nhiễm môi trường đặc biết là ô nhiễm rác thải nhựa đại dương. Do đó để thực hiện các mục tiêu của kịch bản xanh một số khuyến nghị cụ thể trên một số lĩnh vực, một số ngành được đề cập đến như:

+ Đối với ngành thủy sản và nuôi trồng thủy sản, giảm sản lượng đánh bắt thủy sản xuống mức sản lượng bền vững tối đa (~ 2,7 triệu tấn mỗi năm) thông qua việc giảm sản lượng đánh bắt 2% mỗi năm, bao gồm giảm 5% mã lực tàu ven bờ mỗi năm; duy trì diện tích nuôi trồng thủy sản và cải tiến quản lý để dẫn đến năng suất an toàn tăng 3,5% mỗi năm.

+ Về dầu khí, thúc đẩy tiết kiệm năng lượng trong các hoạt động sản xuất dầu khí; tăng cường bảo vệ mỗi trường và tăng cường tham gia vào lĩnh vực sản xuất năng lượng tái tạo trên biển mới nổi.

+ Đối với năng lượng tái tạo biển, mở rộng nhanh chóng các nguồn năng lượng tái tạo biển đạt 10.000 MW lắp đặt vào năm 2030, bao gồm ~4.500 MW gió gần bờ (chủ yếu là đồng bằng sông Cửu Long) và 5.500 MW gió ngoài khơi (chủ yếu là khu vực Nam Trung Bộ).

+ Về du lịch, thúc đẩy tăng trưởng khách quốc tế 8-10%/năm và khách nội địa 5 - 6%/năm đến năm 2030; đạt 1,6 triệu giường khách du lịch với tỷ lệ lấp đầy 65% vào năm 2030; đưa các tác động của biến đổi khí hậu, bao gồm cả nước biển dâng, vào quy hoạch du lịch.

+ Vận tải hàng hải, tăng vận tải biển lên 20,6% hoặc thị phần vào năm 2030; nâng khối lượng hàng hóa vận chuyển lên 787 triệu tấn và mở rộng vận tải nội địa lên 289 triệu tấn.

Có thể nói những khuyến nghị nên trong báo cáo sẽ giúp thúc đẩy kinh tế biển xanh tại Việt Nam, góp phần thực hiện thành công Nghị quyết 36 của Trung ương về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; các mục tiêu phát triển bền vững của Liên Hợp Quốc, trong đó có mục tiêu SDG14 về bảo tồn và sử dụng bền vững các đại dương, biển và tài nguyên biển.  Đây cũng là một trong nhiều giải pháp nhằm thúc đẩy Việt Nam thực hiện các cam kết để đạt được mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.

Tố Nga

Theo Tạp chí Tri thức Xanh, số 161-5/2022

Bình luận: 0