TẠP CHÍ TRI THỨC XANH - CƠ QUAN LÝ LUẬN CỦA VIỆN KHOA HỌC MÔI TRƯỜNG VÀ XÃ HỘI

E-mail:info@ttxonline.vn -  Hotline: 0948565689
thứ năm, 21/11/2024

Hạn chế khai thác nước dưới đất để bảo vệ tài nguyên nước

07:54 06/05/2022
Logo header Thực trạng hiện nay cho thấy, một số địa phương đã và đang áp dụng các biện pháp hạn chế khai thác nước dưới đất chưa phù hợp với thực tiễn làm nảy sinh nhiều nguy cơ tác động xấu tới nguồn tài nguyên nước. Trước thực trạng đó, Bộ Tài nguyên và Môi trường vừa có văn bản đề nghị các tỉnh khẩn trương phê duyệt danh mục "vùng hạn chế khai thác nước dưới đất" để bảo vệ nguồn nước.

Khẩn trương phê duyệt danh mục "vùng hạn chế khai thác nước dưới đất"
Bộ Tài nguyên và Môi trường vừa có văn bản đề nghị Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, gấp rút triển khai việc khoanh định, công bố danh mục vùng hạn chế khai thác nước dưới đất. Đại diện Bộ Tài nguyên và Môi trường cho biết, Luật Tài nguyên nước năm 2012 đã quy định mọi tổ chức, cá nhân có quyền khai thác, sử dụng tài nguyên nước để phục vụ cho các mục đích sinh hoạt, sản xuất, kinh doanh, các mục đích khác và được nhà nước bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp trong quá trình khai thác, sử dụng tài nguyên nước.
Trên cơ sở đó, thời gian qua, nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã chú trọng công tác cải cách hành chính về công tác cấp phép, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân trong việc tiếp cận, khai thác nguồn nước mặt, nguồn nước dưới đất đồng thời cũng đã chú trọng đẩy mạnh công tác bảo vệ tài nguyên nước dưới đất. Tuy nhiên, theo ghi nhận của Bộ Tài nguyên và Môi trường, thực tế tại môt số địa phương hiện vẫn đang áp dụng biện pháp hạn chế khai thác nước dưới đất chưa phù hợp, gây ảnh hưởng không nhỏ đến quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân. Ngoài ra, nhiều tỉnh, thành phố hiện vẫn chưa triển khai việc khoanh định, công bố danh mục "vùng hạn chế khai thác nước dưới đất" theo quy định của Nghị định số 167/2018/NĐ-CP của Chính phủ quy định việc hạn chế khai thác nước dưới đất. Vì thế, để sớm chấn chỉnh thực trạng trên, Bộ Tài nguyên và Môi trường đề nghị các tỉnh, thành phố chưa phê duyệt danh mục "vùng hạn chế khai thác nước dưới đất" cần khẩn trương tổ chức triển khai việc khoanh định, công bố danh mục vùng này đồng thời xây dựng, phê duyệt phương án tổ chức thực hiện việc hạn chế khai thác nước dưới đất trên địa bàn tỉnh để làm căn cứ triển khai công tác bảo vệ tài nguyên nước.
Đối với các tỉnh, thành phố đã phê duyệt danh mục vùng hạn chế khai thác nước dưới đất, Bộ Tài nguyên và Môi trường đề nghị sớm tổ chức xây dựng, phê duyệt phương án tổ chức thực hiện việc hạn chế khai thác nước dưới đất theo quy định của Nghị định số 167/2018/NĐ-CP; trong đó cần đảm bảo áp dụng đúng các biện pháp hạn chế khai thác nước dưới đất đối với từng khu vực, từng vùng hạn chế và từng công trình. Với các công trình khai thác nước dưới đất đã được cấp giấy phép thì chỉ áp dụng biện pháp hạn chế khai thác là “dừng khai thác và thực hiện xử lý, trám lấp giếng” hoặc “không gia hạn giấy phép” nếu công trình thuộc vùng hạn chế 1 (khu vực xảy ra sụt lún đất, nhiễm mặn, ô nhiễm hoặc khu vực liền kề khu vực xảy ra sự cố). Trường hợp công trình không nằm trong vùng hạn chế khai thác nước dưới đất thì vẫn được xem xét cấp mới, gia hạn, điều chỉnh, cấp lại giấy phép nếu đủ điều kiện theo quy định của Luật tài nguyên nước năm 2012 và Nghị định số 201/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật tài nguyên nước.
Khoanh định 5 Vùng hạn chế khai thác nước dưới đất
Theo Nghị định 167/2018/NĐ-CP quy định việc hạn chế khai thác nước dưới đất, có 5 vùng hạn chế khai thác nước dưới đất gồm: Vùng hạn chế 1; Vùng hạn chế 2; Vùng hạn chế 3; Vùng hạn chế 4; Vùng hạn chế hỗn hợp.
Vùng hạn chế 1, bao gồm các khu vực đã từng xảy ra sự cố sụt, lún đất, biến dạng địa hình; Khu vực có biên mặn, có hàm lượng tổng chất rắn hòa tan (TDS) từ 1.500 mg/l trở lên; Khu vực có bãi chôn lấp chất thải rắn tập trung theo quy định của pháp luật về quy hoạch, xây dựng và bảo vệ môi trường; Khu vực có giếng khai thác nước dưới đất bị ô nhiễm, gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người và sinh vật mà chưa có giải pháp công nghệ để xử lý để bảo đảm đạt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước ăn uống, sinh hoạt; Khu vực có nghĩa trang tập trung hoặc các khu vực có nguy cơ gây ô nhiễm nguồn nước dưới đất khác do UBND các tỉnh, thành phố quyết định.
Vùng hạn chế 2, bao gồm các tầng chứa nước lỗ hổng ở thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và các địa phương thuộc khu vực đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long; Đối với các tầng chứa nước lỗ hổng ở các địa phương khác thì UBND cấp tỉnh căn cứ quy mô, mức độ khai thác nước dưới đất, mức độ hạ thấp mực nước dưới đất và yêu cầu về bảo vệ nguồn nước dưới đất trên địa bàn quyết định việc khoanh định; các tầng chứa nước trong đá bazan ở các địa phương thuộc khu vực Tây Nguyên.
Vùng hạn chế 3, bao gồm các khu đô thị, khu dân cư tập trung ở nông thôn, khu, cụm công nghiệp tập trung, làng nghề đã có hệ thống cấp nước tập trung và dịch vụ cấp nước bảo đảm đáp ứng yêu cầu chất lượng, số lượng.
Vùng hạn chế 4, bao gồm các khu vực có nguồn nước mặt có khả năng đáp ứng ổn định cho các nhu cầu sử dụng nước. Vùng hạn chế hỗn hợp là vùng có diện tích chồng lấn giữa các vùng hạn chế 1, 2, 3 hoặc 4.
Biện pháp hạn chế khai thác nước dưới đất với từng vùng
Theo Nghị định 167/2018/NĐ-CP, biện pháp hạn chế khai thác đối với 5 khu vực trên là dừng toàn bộ mọi hoạt động khai thác nước dưới đất hiện có (nếu có) và thực hiện xử lý, trám lấp giếng theo quy định. Trường hợp công trình không có giấy phép, bên cạnh việc xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật còn phải dừng hoạt động khai thác và thực hiện việc xử lý, trám lấp giếng.
Đối với vùng hạn chế 2, 3 không cấp phép thăm dò, khai thác để xây dựng thêm công trình khai thác nước dưới đất mới. Riêng với vùng hạn chế 4 không cấp phép thăm dò, khai thác để xây dựng thêm công trình khai thác nước dưới đất mới có quy mô khai thác từ 10.000 m3/ngày trở lên, trừ trường hợp công trình khai thác để cấp nước cho các mục đích sử dụng theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 3 của Nghị định này.
Trên cơ sở tổng hợp kết quả khoanh định các vùng, khu vực hạn chế theo quy định tại Vùng 1, 2, 3, 4  của Nghị định này, trường hợp có các khu vực hạn chế bị chồng lấn nhau, thì phần diện tích chồng lấn được khoanh định vào Vùng hạn chế hỗn hợp.
Phạm vi khoanh định Vùng hạn chế hỗn hợp bao gồm phần diện tích chồng lấn của các khu vực hạn chế. Các biện pháp hạn chế khai thác trong Vùng hạn chế hỗn hợp được quyết định trên cơ sở các biện pháp hạn chế khai thác tương ứng với từng vùng quy tại Vùng 1, 2, 3, 4 theo thứ tự quy định.


Đình Hiệp

Theo Tạp chí Tri thức Xanh số 160 - 04/2022

Bình luận: 0