Những điểm mới của Luật Bảo vệ môi trường 2020
Tính cấp thiết của việc xây dựng Luật Bảo vệ môi trường 2020
Luật BVMT 2014 đã được Quốc hội khóa XIII thông qua tại kỳ họp thứ 7 ngày 23 tháng 6 năm 2014, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2015 (Luật BVMT 2014). Việc ban hành Luật BVMT 2014 đã tạo ra hành lang pháp lý vững chắc, chặt chẽ cho công tác bảo vệ môi trường nói chung và cho quản lý bảo vệ môi trường của nhà nước nói riêng. Tuy nhiên sau thời gian áp dụng Luật BVMT 2014 đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập, bao gồm:
Về tính hiệu lực pháp lý:
+ Một số quy định trong pháp luật về BVMT còn chưa phù hợp, chưa sát thực tế, thiếu hướng dẫn cụ thể dẫn đến luật chậm đi vào cuộc sống hoặc khi đưa vào thực tế, hiệu lực quản lý, hướng dẫn, sử dụng chưa cao;
+ Một số quy định không theo kịp yêu cầu phát triển của thực tiễn và hội nhập quốc tế; cơ chế, chính sách BVMT chậm đổi mới, chưa đồng bộ với thể chế kinh tế thị trường;
Về cơ chế quản lý nhà nước.
+ Nội dung, trách nhiệm, phân công, phân cấp quản lý nhà nước về BVMT còn phân tán, chồng chéo và chưa hợp lý, chưa đi đôi với tăng cường năng lực, phân định rõ trách nhiệm;
+ Bộ máy quản lý nhà nước về môi trường chưa tương xứng với chức năng, nhiệm vụ được giao, chưa giải quyết hiệu quả các vấn đề liên ngành, liên vùng, xuyên quốc gia.
+ Chưa có nhiều cơ chế hấp dẫn, thu hút sự tham gia của toàn xã hội, từng doanh nghiệp và người dân đối với công tác BVMT;
Về hiệu lực quản lý nhà nước
+ Các thủ tục hành chính mang tính cho phép về môi trường vừa thiếu, vừa chồng chéo, trùng lắp, phân tán, thiếu sự liên thông, tích hợp dẫn đến việc cùng một dự án, chủ đầu tư phải thực hiện nhiều thủ tục hành chính mang tính cho phép về môi trường của nhiều bên, nhiều cơ quan nhà nước.
+ Một số vấn đề mới phát sinh về BVMT chưa có hành lang pháp lý để điều chỉnh.
+ Nhiều vấn đề mới nảy sinh như tác động của biến đổi khí hậu, an ninh môi trường, an ninh sinh thái đòi hỏi pháp luật về BVMT phải được cập nhật, bổ sung với các giải pháp đồng bộ, đủ mạnh, có tính đột phá.
+ Các quy định về chế tài xử lý vi phạm trong BVMT còn thiếu, yếu, không đảm bảo đủ tính răn đe dẫn tới vi phạm pháp luật về BVMT vẫn diễn biến phức tạp. Các quy định về công tác thanh tra, kiểm tra trong lĩnh vực môi trường còn chưa chặt chẽ, đầy đủ.
Bên cạnh những bất cập, hạn chế trong nội dung cũng như việc triển khai, thi hành Luật BVMT 2014 còn chồng chéo với một số quy định pháp luật khác như Luật Đầu tư, Luật Đầu tư công…Do đó việc xây dựng Luật BVMT 2020 là vô cùng cấp bách, cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả quản lý về bảo vệ môi trường.
Những điểm mới của Luật BVMT 2020
Luật BVMT 2020 đã thiết kế khung chính sách hướng đến việc hình thành đạo luật về BVMT có tính tổng thể, toàn diện và hài hòa với hệ thống pháp luật về kinh tế-xã hội. Luật đã phát huy vai trò của người dân, doanh nghiệp và cả hệ thống chính trị trong việc tham gia vào các hoạt động BVMT, từ hoạch định chính sách đến tổ chức, giám sát thực hiện chính sách. Hơn thế, luật đã quy định thể hiện rõ doanh nghiệp, người dân phải đóng vai trò trung tâm còn Nhà nước đóng vai trò kiến tạo pháp luật, cơ chế, chính sách về BVMT.
Luật với nhiều quy định nhằm cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính (TTHC), góp phần giảm chi phí tuân thủ của doanh nghiệp thông qua các quy định: thu hẹp đối tượng phải thực hiện đánh giá tác động môi trường; tích hợp các TTHC vào 01 giấy phép môi trường; đồng bộ các công cụ quản lý môi trường theo từng giai đoạn của dự án, bắt đầu từ khâu xem xét chủ trương đầu tư, thẩm định dự án, thực hiện dự án cho đến khi dự án đi vào vận hành chính thức và kết thúc dự án.
Một số điểm mới cụ thể như sau:
Về mặt bố cục:
Luật BVMT 2014 gồm 20, Chương 170 Điều trong khi đó Luật BVMT 2020 bao gồm 16 Chương, 171 Điều; Tức là thêm mới gần 70 Điều và bãi bỏ gần 50 Điều so với Luật BVMT 2014, được kết cấu lại theo hướng đưa các quy định chi tiết về bảo vệ thành phần môi trường lên đầu.
Thứ nhất, Luật BVMT 2020 đưa các quy định về bảo vệ các thành phần môi trường lên đầu, thể hiện rõ mục tiêu xuyên suốt là bảo vệ các thành phần môi trường, bảo vệ sức khỏe người dân, coi đây là nội dung trọng tâm, quyết định cho các chính sách BVMT khác.
Thứ hai, bắt đầu từ khâu xem xét chủ trương đầu tư, thẩm định dự án, thực hiện dự án cho đến khi dự án đi vào vận hành chính thức và kết thúc dự án của các dự án đều được đồng bộ các công cụ quản lý với chiến lược BVMT quốc gia, quy hoạch BVMT, đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá sơ bộ tác động môi trường, đánh giá tác động môi trường, giấy phép môi trường và đăng ký môi trường.
Thứ ba, lần đầu tiên, Luật BVMT 2020 thiết kế khung chính sách hướng đến việc hình thành đạo luật về BVMT có tính tổng thể, toàn diện và hài hòa với hệ thống pháp luật về kinh tế-xã hội; cải cách mạnh mẽ, cắt giảm trên 40% thủ tục hành chính, giảm thời gian thực hiện các thủ tục hành chính từ 20-85 ngày, góp phần giảm chi phí tuân thủ của doanh nghiệp.
Về mặt nội dung:
- Bổ sung chủ thể “cộng đồng dân cư”. Trong tất cả các đạo luật về BVMT trước đây ở Việt Nam, chủ thể được quy định là các ‘cơ quan, tổ chức, hộ gia đình và cá nhân. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 28 Điều 3 Luật BVMT 2020, “cộng đồng dân cư” lần đầu tiên được định nghĩa là “cộng đồng người sinh sống trên cùng địa bàn thôn, ấp, bản, làng, buôn, bon, phum, sóc, tổ dân phố hoặc điểm dân cư tương tự trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” và trở thành một chủ thể được tham vấn trong công tác đánh giá tác động môi trường tại khoản 1 Điều 33 Luật BVMT 2020. Điều này thể hiện vai trò của cộng đồng dân cư trong thực những mục tiêu xuyên suốt của Luật là bảo vệ sức khỏe người dân, đảm bảo người dân được sống trong môi trường trong lành.
- Phân nhóm các Dự án đầu tư theo tiêu chí môi trường và cắt giảm thủ tục hành chính.
Để phân loại dự án đầu tư, các Luật BVMT trước đây chủ yếu căn cứ vào tiêu chí mức độ tác động xấu đến môi trường và diện tích sử dụng đất. Luật BVMT 2020 phân loại các dự án đầu tư thành 4 nhóm dựa trên đánh giá từ nhiều tiêu chí khác nhau như Quy mô, công suất, loại hình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ; Diện tích sử dụng đất, đất có mặt nước, khu vực biển; quy mô khai thác tài nguyên thiên nhiên; Yếu tố nhạy cảm về môi trường gồm khu dân cư tập trung; nguồn nước được dùng cho mục đích cấp nước sinh hoạt; khu bảo tồn thiên nhiên theo quy định của pháp luật về đa dạng sinh học, thủy sản; các loại rừng theo quy định của pháp luật về lâm nghiệp; di sản văn hóa vật thể, di sản thiên nhiên khác; đất trồng lúa nước từ 02 vụ trở lên; vùng đất ngập nước quan trọng; yêu cầu di dân, tái định cư và yếu tố nhạy cảm khác về môi trường.
Phân nhóm dự án đầu tư căn cứ tiêu chí về môi trường như sau:
(i) Dự án đầu tư nhóm I: Là dự án có nguy cơ tác động xấu đến môi trường mức độ cao, bao gồm:
- Dự án thuộc loại hình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường với quy mô, công suất lớn; dự án thực hiện dịch vụ xử lý chất thải nguy hại; dự án có nhập khẩu phế liệu từ nước ngoài làm nguyên liệu sản xuất;
- Dự án thuộc loại hình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường với quy mô, công suất trung bình nhưng có yếu tố nhạy cảm về môi trường; dự án không thuộc loại hình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường với quy mô, công suất lớn nhưng có yếu tố nhạy cảm về môi trường;
- Dự án sử dụng đất, đất có mặt nước, khu vực biển với quy mô lớn hoặc với quy mô trung bình nhưng có yếu tố nhạy cảm về môi trường;
- Dự án khai thác khoáng sản, tài nguyên nước với quy mô, công suất lớn hoặc với quy mô, công suất trung bình nhưng có yếu tố nhạy cảm về môi trường;
- Dự án có yêu cầu chuyển mục đích sử dụng đất quy mô trung bình trở lên nhưng có yếu tố nhạy cảm về môi trường;
- Dự án có yêu cầu di dân, tái định cư với quy mô lớn.
(ii) Dự án đầu tư nhóm II: Là dự án có nguy cơ tác động xấu đến môi trường (trừ dự án đầu tư nhóm I), bao gồm:
- Dự án thuộc loại hình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường với quy mô, công suất trung bình;
- Dự án thuộc loại hình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường với quy mô, công suất nhỏ nhưng có yếu tố nhạy cảm về môi trường; dự án không thuộc loại hình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường với quy mô, công suất trung bình nhưng có yếu tố nhạy cảm về môi trường;
- Dự án sử dụng đất, đất có mặt nước, khu vực biển với quy mô trung bình hoặc với quy mô nhỏ nhưng có yếu tố nhạy cảm về môi trường;
- Dự án khai thác khoáng sản, tài nguyên nước với quy mô, công suất trung bình hoặc với quy mô, công suất nhỏ nhưng có yếu tố nhạy cảm về môi trường;
- Dự án có yêu cầu chuyển mục đích sử dụng đất với quy mô nhỏ nhưng có yếu tố nhạy cảm về môi trường;
- Dự án có yêu cầu di dân, tái định cư với quy mô trung bình.
(iii) Dự án đầu tư nhóm III: Là dự án ít có nguy cơ tác động xấu đến môi trường (trừ dự án đầu tư nhóm I và nhóm II), bao gồm:
- Dự án thuộc loại hình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường với quy mô, công suất nhỏ;
- Dự án không thuộc loại hình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường có phát sinh nước thải, bụi, khí thải phải được xử lý hoặc có phát sinh chất thải nguy hại phải được quản lý theo quy định về quản lý chất thải.
(iv) Dự án đầu tư nhóm IV: Là dự án không có nguy cơ tác động xấu đến môi trường, gồm dự án không thuộc Dự án đầu tư nhóm I, II, III.
Ngoài ra, dự án đầu tư nhóm I thuộc đối tượng phải thực hiện đánh giá sơ bộ tác động môi trường theo Điều 29 Luật BVMT 2022.
Tương ứng với từng đối tượng dự án cụ thể, cơ quan quản lý nhà nước về môi trường sẽ áp dụng các cơ chế quản lý phù hợp, cụ thể là: chỉ đối tượng có nguy cơ tác động xấu đến môi trường mức độ cao (Nhóm I) mới phải đánh giá sơ bộ tác động môi trường. Quy định này nhằm khắc phục các hạn chế, bất cập của pháp luật hiện hành, gồm: Giảm thủ tục hành chính cho nhiều nhà đầu tư, theo đó các dự án không thuộc Nhóm I sẽ không phải đánh giá sơ bộ tác động môi trường nhằm tiết kiệm được thời gian và chi phí.
Luật BVMT 2020 bắt đầu tiếp cận phương pháp quản lý môi trường xuyên suốt, khoa học đối với Dự án đầu tư dựa trên các tiêu chí môi trường; không khuyến khích các Dự án không tuân theo quy luật tự nhiên, chiếm dụng diện tích rừng, đất nông nghiệp, tác động đến các di sản thiên nhiên, khu bảo tồn. Thêm vào đó, việc bổ sung tiêu chí môi trường và đối tượng phải đánh giá tác động môi trường có thể coi là căn cứ để các doanh nghiệp chủ động hơn trong việc đánh giá, nộp đúng và đủ các hồ sơ để thực hiện thủ tục và giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền nâng cao hiệu quả kiểm tra, giám sát các Dự án đồng thời đẩy nhanh tiến độ thực hiện thủ tục để các Dự án cần thiết cho địa phương sớm được xây dựng và đi vào hoạt động.
Luật BVMT năm 2020 cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính thông qua việc tích hợp toàn bộ các giấy phép, giấy xác nhận về môi trường vào 1 GPMT và bãi bỏ các giấy phép có liên quan, qua đó giảm chi phí cho cả doanh nghiệp và cơ quan quản lý, đồng thời vẫn bảo đảm kiểm soát được các tác động môi trường từ hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ.
- Đã định chế nội dung sức khỏe môi trường; bổ sung nhiều giải pháp bảo vệ các thành phần môi trường, đặc biệt là môi trường không khí, môi trường nước
Sức khỏe môi trường tuy không có quy định riêng nhưng đã được định chế trong toàn bộ Luật BVMT 2020, thông qua việc bảo vệ các thành phần môi trường, qua đó bảo vệ sức khỏe người dân, bảo đảm quyền mọi người được sống trong môi trường trong lành. Luật đã bổ sung nội dung quản lý các chất ô nhiễm có tác động trực tiếp đến sức khỏe con người; quy định rõ trách nhiệm của các Bộ, cơ quan ngang bộ, UBND cấp tỉnh trong theo dõi, kiểm soát, phòng ngừa các chất ô nhiễm ảnh hưởng đến sức khỏe con người cũng như đánh giá mối quan hệ giữa sức khỏe môi trường với sức khỏe con người, đặc biệt là mối quan hệ giữa ô nhiễm môi trường với các loại bệnh dịch mới.
- Các quy định về phân loại rác từ nguồn chặt chẽ hơn
Luật BVMT 2020 đã quy định việc thu phí rác thải dựa trên khối lượng hoặc thể tích thay cho việc tính bình quân theo hộ gia đình hoặc đầu người như hiện nay. Cơ chế thu phí này sẽ góp phần thúc đẩy người dân phân loại, giảm thiểu rác thải phát sinh tại nguồn.
Luật BVMT 2020 lần đầu tiên quy định việc lựa chọn cơ sở thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải rắn sinh hoạt mở ra cơ chế minh bạch, công bằng và khuyến khích đầu tư vào lĩnh vực xử lý chất thải rắn sinh hoạt tại Việt Nam. Đồng thời giảm áp lực cho các cơ sở xử lý chất thải rắn sinh hoạt truyền thống.
- Phân cấp, phân quyền cụ thể hơn trong quản lý nhà nước về môi trường
Luật giao Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chủ trì, phối hợp với các Bộ có liên quan thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường đối với các dự án thuộc thẩm quyền phê duyệt chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư của các Bộ quản lý công trình xây dựng chuyên ngành (quy định hiện hành phân cấp các Bộ, ngành đều có thể thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường). Quy định này sẽ bảo đảm quản lý thống nhất tại địa phương, thuận lợi cho công tác kiểm tra, giám sát, cấp phép, phân cấp, phân quyền mạnh mẽ hơn cho địa phương.
- Các quy định về ứng phó biến đổi khí hậu, thúc đẩy phát triển thị trường các-bon trong nước được cụ thể hoá
Luật BVMT 2020 đã bổ sung các quy định về thích ứng với biến đổi khí hậu, giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, bảo vệ tầng ô-zôn. Cụ thể bổ sung quy định về lồng ghép nội dung ứng phó với biến đổi khí hậu vào hệ thống chiến lược, quy hoạch, thực hiện cam kết quốc tế về biến đổi khí hậu và bảo vệ tầng ô-zôn; xác định nội dung và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước về thích ứng với biến đổi khí hậu và giảm nhẹ phát thải khí nhà kính;
- Hoàn thiện hành lang pháp lý bảo vệ di sản phù hợp với pháp luật quốc tế về di sản
Luật BVMT 2020 đã đưa ra các quy định về tiêu chí xác lập di sản thiên nhiên dựa trên cơ sở các tiêu chí của quốc tế và thực tiễn điều kiện Việt Nam hiện nay; trong đó đối với các đối tượng là di sản thiên nhiên đã được quy định trong pháp luật về lâm nghiệp, thủy sản, đa dạng sinh học và di sản văn hóa thì vẫn thực hiện theo các quy định này để tránh xáo trộn, chồng chéo. Đồng thời, quy định việc điều tra, đánh giá, quản lý và BVMT di sản thiên nhiên để bảo vệ, phát huy giá trị bền vững di sản thiên nhiên ở nước ta.
Để Luạt BVMT 2020 đi vào cuộc sống, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã tập trung đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến những nội dung mới của Luật và các văn bản dưới Luật đến các nhà quản lý, người dân và doanh nghiệp. Bộ tiếp tục đề nghị các bộ, ngành, địa phương thực hiện tốt việc giải quyết các thủ tục hành chính về môi trường cho người dân và doanh nghiệp, bảo đảm tính liên tục, đồng bộ; tăng cường công tác hậu kiểm, thanh tra, kiểm tra trên cơ sở cập nhật, sàng lọc rõ các đối tượng theo quy định mới.
Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Ðề án tăng cường quản lý chất thải nhựa ở Việt Nam; Ðề án kiểm kê, quan trắc, lập báo cáo và xây dựng cơ sở dữ liệu đa dạng sinh học quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050; Kế hoạch quốc gia về quản lý chất lượng môi trường không khí giai đoạn 2021-2025… Bộ cũng sẽ thiết lập cơ chế tiếp nhận, giải đáp trực tuyến các vướng mắc, kiến nghị của các bộ, ngành, địa phương, người dân và doanh nghiệp trong quá trình triển khai và thi hành Luật…
Nghĩa Huy
Theo Tạp chí Tri thức Xanh số 161 - 05/2022
Tin tức liên quan
- Đan Phượng (Hà Nội): Tích cực khắc phục hậu quả cơn bão số 3 (11:26 11/09/2024)
- Phát triển kinh tế biển gắn với bền vững và thích ứng với biến đổi khí hậu (09:46 29/06/2022)
- Đa dạng sinh học ở Việt Nam dưới tác động của các hoạt động kinh tế (Kỳ 1) (11:48 18/06/2022)
- An ninh môi trường Việt Nam những con số đáng báo động (Kỳ 1) (06:31 07/06/2022)
- Quy định bảo vệ môi trường di sản thiên nhiên trong Luật BVMT và Nghị định số 08/2022/NĐ-CP (02:29 06/06/2022)