TẠP CHÍ TRI THỨC XANH - CƠ QUAN LÝ LUẬN CỦA VIỆN KHOA HỌC MÔI TRƯỜNG VÀ XÃ HỘI

E-mail:info@ttxonline.vn -  Hotline: 0948565689
thứ năm, 18/04/2024

Một số vấn đề lý luận về trách nhiệm giải trình của Chính quyền địa phương

21:24 26/03/2020
Logo header Trách nhiệm giải trình là vấn đề mới được đề cập ở Việt Nam, cũng là vấn đề đang được Đảng, Nhà nước và toàn xã hội quan tâm. Nhiều vấn đề lý luận về trách nhiệm giải trình và trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương (CQĐP) còn có những tranh luận, cách hiểu chưa thống nhất, thậm chí chưa được đề cập làm rõ. Bài viết tập trung luận giải những vấn đề lý luận cơ bản nhất về trách nhiệm giải trình của CQĐP.

Cơ sở lý luận xác lập trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương

Nguyên lý chủ quyền nhân dân – nền tảng thiết lập trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương

Trong xã hội dân chủ, quyền lực Nhà nước là quyền lực nhận từ sự ủy quyền của nhân dân, quyền lực nhân dân quyết định phạm vi, mục đích, kể cả cách thức sử dụng quyền lực Nhà nước, quyền lực Nhà nước phụ thuộc và chịu sự kiểm soát của quyền lực nhân dân. Luận điểm này bắt nguồn từ nguyên lý chủ quyền nhân dân. Mặc dù với những góc nhìn và quan niệm hết sức đa dạng, nhưng nội dung chung nhất của nguyên lý này đó là: quyền lực nhân dân là quyền lực tối cao và là quyền lực gốc trong các xã hội dân chủ; quyền lực nhân dân không được biểu hiện và thực thi liên tục bởi chính chủ thể của nó là nhân dân, nhưng tư cách chủ thể của nhân dân thể hiện ở việc trực tiếp thực hiện một phần quyền lực, ủy thác thực hiện quyền lực và kiểm tra, giám sát, kể cả việc thay đổi, hủy bỏ quyền lực đã được ủy thác; quyền lực Nhà nước là bộ phận cơ bản của quyền lực nhân dân được hình thành thông qua sự đồng thuận ủy quyền của nhân dân, mà bằng chứng hữu hình của sự đồng thuận đó là sự hiện diện của chủ nghĩa lập hiến. Nhân dân, bằng quyền lực của mình thiết lập ra nhà nước, ủy quyền cho nhà nước thực hiện quyền lực nhân dân, vì vậy, xét về bản chất, quyền lực Nhà nước là thống nhất, không thể phân chia, chỉ thuộc về chủ thể duy nhất là nhân dân. Mọi sự phân chia, phân công, phân quyền…giữa các cơ quan trong cơ cấu bộ máy Nhà nước đều mang tính “kỹ thuật” để quyền lực Nhà nước được thực hiện trên thực tế, phản ánh được ý chí của nhân dân và không làm phương hại đến chủ quyền nhân dân. 

Như vậy, với tư cách là chủ thể tối cao của quyền lực, nhân dân phải có quyền được biết các cơ quan Nhà nước từ trung ương đến địa phương và những người đại diện sử dụng quyền lực được nhân dân ủy nhiệm như thế nào. Đây là một đòi hỏi chính đáng, tự nhiên của chủ thể quyền lực, thông qua đó chủ thể có thể kiểm soát được quyền lực được trao cho Nhà nước. Đây cũng chính là cơ sở quan trọng để nhân dân yêu cầu các cơ quan Nhà nước từ trung ương đến địa phương phải thực hiện trách nhiệm giải trình trong việc sử dụng quyền lực được nhân dân ủy quyền. 

Nguyên tắc phân định thẩm quyền giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương – cơ sở xác lập cơ chế thực hiện trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương

Việc phân định thẩm quyền giữa chính quyền trung ương và CQĐP là một nhu cầu mang tính khách quan trong việc quản lý quốc gia, đồng thời cũng là nhu cầu phát triển tự nhiên của mỗi địa phương. Để việc phân định thẩm quyền đạt hiệu quả, đúng mục tiêu và định hướng của Nhà nước, cần xác lập cơ chế kiểm soát việc thực hiện thẩm quyền đã được phân định - cơ chế yêu cầu CQĐP phải thực hiện trách nhiệm giải trình là một trong những cách thức mà thông qua đó chính quyền trung ương có thể kiểm tra, giám sát việc thực hiện thẩm quyền đã được phân định cho CQĐP. Đây là một nhu cầu mang tính khách quan, đảm bảo quyền lực quản lý của chính quyền trung ương được thống nhất, tuân thủ định hướng phát triển chung của quốc gia. 

Lý luận và thực tiễn về phân định thẩm quyền giữa chính quyền trung ương và CQĐP cho thấy, việc phân định này là một vấn đề không hề đơn giản, nó không chỉ mang tính khoa học cao trên phương diện việc tổ chức thực hiện quyền lực Nhà nước, mà còn liên quan đến những vấn đề rộng lớn hơn, phức tạp hơn đó là chính trị và pháp lý - yếu tố không phải là bất biến qua mỗi thời kỳ lịch sử. Vấn đề quan trọng nhất trong phân định thẩm quyền là trả lời cho câu hỏi, việc phân định dựa trên cơ sở của nguyên tắc nào? 

Thực tiễn cho thấy, có ba nguyên tắc cơ bản trong phân định thẩm quyền giữa chính quyền trung ương và CQĐP là: tập quyền, phân quyền, tản quyền và một số biến thể của nó. Ứng với việc thực hiện từng nguyên tắc, vị thế của CQĐP trong mối quan hệ với chính quyền trung ương và cư dân địa phương là khác nhau, do vậy, cơ chế yêu cầu CQĐP phải thực hiện trách nhiệm giải trình trong việc thực hiện thẩm quyền được phân định cũng có sự khác nhau. 

Ở Việt Nam, việc phân định thẩm quyền mang tính chất tổng hòa của cả ba nguyên tắc nêu trên. Trong đó, yếu tố tập quyền là chủ đạo, tản quyền là phổ biến, phi tập trung hóa là rất yếu ớt và riêng lẻ, ủy quyền diễn ra phổ biến đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng, vì vậy, khi xác lập trách nhiệm giải trình của CQĐP phải thấm nhuần quan điểm xuyên suốt về sự thống nhất của quyền lực Nhà nước và nguyên tắc tập trung dân chủ được thừa nhận như là một đặc trưng, theo đó, CQĐP phải thực hiện trách nhiệm giải trình trước hết đối với cơ quan Nhà nước cấp trên, cơ quan Nhà nước cùng cấp, người dân và các tổ chức đại diện cho người dân tại địa phương. 

Vị trí, vai trò của chính quyền địa phương – cơ sở xây dựng các căn cứ pháp lý về trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương

CQĐP là cơ quan thực hiện quyền lực Nhà nước ở địa phương, nghĩa là, trong quan hệ quyền lực Nhà nước thống nhất, CQĐP là một cấu trúc quyền lực có tính bộ phận trong hệ thống cơ quan Nhà nước thống nhất trên toàn bộ lãnh thổ. Và CQĐP còn là thiết chế đại diện cho lợi ích, ý chí, nguyện vọng của cộng đồng dân cư trong phạm vi lãnh thổ, do đó, CQĐP ở địa phương còn là hình thức tổ chức thực hiện dân chủ của nhân dân địa phương trong một phạm vi lãnh thổ cụ thể.

Khác với cơ quan Nhà nước ở trung ương, CQĐP luôn thể hiện tính chất kép, vừa mang tính quyền lực Nhà nước, vừa mang tính tự quản. Xuất phát từ vị trí, vai trò đó pháp luật của các quốc gia phải thể chế hóa được hai chức năng cơ bản của CQĐP đó là: Thực hiện chức năng hành chính ở địa phương, quản lý dân cư trong lãnh thổ: là trung tâm tổ chức thực hiện pháp luật và các quyết định của cơ quan Nhà nước cấp trên tại địa bàn quản lý của mình, đưa quyền lực Nhà nước vào hoạt động hàng ngày ở địa phương, sử dụng quyền lực Nhà nước để quản lý các quá trình xã hội diễn ra trên địa bàn lãnh thổ. Về hình thức, chức năng này được đảm bảo bằng pháp luật và cụ thể hóa thành những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể, cũng như sự đảm bảo của Nhà nước về phương tiện, nguồn lực, trong đó có ngân sách để thực hiện; Thực hiện chức năng đại diện cho cộng đồng dân cư tại địa phương, bảo đảm quyền lợi của địa phương trong mối quan hệ với quyền lợi quốc gia. Để thực hiện chức năng này, CQĐP phải do cộng đồng dân cư bầu ra và tùy theo từng quốc gia cơ cấu tổ chức cơ quan CQĐP là có sự khác nhau. Trung tâm của tính chất đại diện cho cộng đồng dân cư tại địa phương thể hiện ở mức độ tự quyết định của CQĐP, thông qua việc Nhà nước trao quyền được chủ động tự quản, tự trị, tự chủ hoặc tự quyết. Về hình thức, chức năng này thể hiện qua sự phân quyền của chính quyền trung ương đối với CQĐP qua quy định của Hiến pháp, luật hoặc những văn bản mang tính chất quy phạm khác và nguồn lực để bảo đảm thực hiện không chỉ từ trung ương mà địa phương cũng phải tự bảo đảm bằng tài sản, ngân sách riêng và nguồn nhân lực của mình.

Trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương
Khái niệm trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương

Các nhà nghiên cứu nước ngoài cũng đưa ra nhiều cách tiếp cận khác nhau về trách nhiệm giải trình. Có thể nhận thấy có hai hướng tiếp cận chính: 

Tiếp cận theo nghĩa chủ động. Đó là “ý thức tự giác”, “chủ động hành xử” theo những chuẩn mực như rõ ràng, minh bạch, có trách nhiệm, thận trọng, biết lắng nghe, sẵn lòng hành động một cách minh bạch, khách quan và công bằng, được sử dụng chủ yếu như một khái niệm quy chuẩn, như là các tiêu chuẩn đạo đức để đánh giá hành vi của các bên tham gia. Do đó, các nghiên cứu về trách nhiệm giải trình thường tập trung vào các vấn đề mang tính quy chuẩn, tập hợp các tiêu chuẩn để đánh giá cách hành xử của các chủ thể công quyền, được xem là hướng tích cực của tổ chức công hoặc công chức. Công trình nghiên cứu Khuôn khổ trách nhiệm giải trình toàn cầu trách nhiệm giải trình được hiểu là sự cam kết và chịu trách nhiệm đối với những người có lợi ích liên quan, cân nhắc các nhu cầu và quan điểm của họ trong quá trình ra quyết định, đưa ra giải thích vì sao các quan điểm và nhu cầu được xem xét hoặc không. Theo đó, trách nhiệm giải trình là một quá trình học hỏi hơn là một cơ chế kiểm soát. Có trách nhiệm giải trình nghĩa là luôn cởi mở với những người có lợi ích liên quan, cam kết với họ việc thường xuyên đối thoại và trao đổi qua lại. 

Cách tiếp cận này cũng gần với các tiếp cận về trách nhiệm giải trình của các tổ chức quốc tế như Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB), Chương trình phát triển Liên hiệp quốc (UNDP), Tổ chức hợp tác phát triển kinh tế (OEDC). ADB xác định, trách nhiệm giải trình tạo ra một diễn đàn để những người dân chịu sự tác động bất lợi của các dự án được tổ chức tài trợ, đưa ra những tiếng nói về những quan ngại của họ và tìm kiếm giải pháp cho những vấn đề đó, điều này tạo ra sự minh bạch, sự tham gia, sự tính nhiệm, tính hiệu quả. Điều này phù hợp với quan điểm trong Dự án Cải cách hành chính – VIE/92/002, Hà Nội 1997, trách nhiệm giải trình có thể được hiểu: (1) “Trách nhiệm của Chính phủ hay một cơ quan của Chính phủ đối với cơ quan cấp trên và đối với công chúng trong việc thực hiện những mục tiêu, nhiệm vụ đã xác định và giải trình trước công chúng về việc đó”; (2) “Cam kết đòi hỏi ở một công chức để đảm nhiệm trách nhiệm về việc có thực hiện hay không một công việc” và (3) “Nghĩa vụ mà cấp dưới phải báo cáo cho cấp trên về việc thực hiện chức trách của mình” . 

Tiếp cận theo nghĩa bị động. Đó là nghĩa vụ phải làm của một chủ thể trước các chủ thể khác. Theo nghĩa này, trách nhiệm giải trình luôn gắn với một mối quan hệ cụ thể, thường là quan hệ đại diện hoặc ủy quyền, trong đó, chủ thể được ủy quyền phải giải thích, chứng minh hành xử của mình, chịu sự phán xét và chế tài (nếu có) từ chủ thể ủy quyền. Cơ sở cho việc xác định trách nhiệm giải trình là sự ủy quyền của người dân và tính đại diện của bộ máy Nhà nước, với tư cách đó, người dân phải có quyền được biết chính quyền đã, đang và sẽ làm gì cho mình thông qua các thủ tục về tiếp cận thông tin, công khai, minh bạch hoạt động của bộ máy công quyền, cơ chế giám sát quyền lực. Trách nhiệm giải trình theo nghĩa bị động xác lập tương đối rõ ràng trách nhiệm của chủ thể nào đối với chủ thể nào, nội dung giải trình là gì, quyền và nghĩa vụ của các bên trong mối quan hệ như thế nào, hệ quả pháp lý…chính vì vậy, hình thức chất vấn và trả lời chất vấn được thể hiện rõ nét, trách nhiệm giải trình theo nghĩa này được thể hiện rõ trong từng mối quan hệ cụ thể giữa các chủ thể và được thực hiện chủ yếu dựa trên mối quan hệ đại diện hoặc ủy quyền.

Ở Việt Nam, trách nhiệm giải trình cũng được các nhà nghiên cứu tiếp cận dưới nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau. Đặc biệt, trong thời gian gần đây, dưới góc độ phòng, chống tham nhũng được đề cập tương đối nhiều, theo đó, trách nhiệm giải trình được hiểu là việc các cơ quan Nhà nước, cá nhân có thẩm quyền trong cơ quan Nhà nước chủ động hoặc theo yêu cầu thực hiện cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời về quyền, nghĩa vụ, về quá trình thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao và trách nhiệm của mình đối với kết quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ đó trước người dân, xã hội và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan. Chương trình sáng kiến chống tham nhũng (VACI) năm 2014 đưa ra định nghĩa: Trách nhiệm giải trình là trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, đơn vị khu vực công phải cung cấp thông tin và làm rõ trách nhiệm về quyết định và hành vi của mình để người dân và các cơ quan giám sát có thể hiểu và đánh giá. Dưới góc độ quản trị tốt, trách nhiệm giải trình được xem là vấn đề trung tâm của mô hình này, theo đó, nội hàm của khái niệm này bao gồm 02 thành tố: a) khả năng giải đáp, là việc yêu cầu các công chức phải có khả năng giải đáp theo định kỳ những vấn đề liên quan đến việc họ đã sử dụng thẩm quyền của mình như thế nào, những nguồn lực được sử dụng vào đâu, với các nguồn lực đó đã đạt được kết quả gì và b) việc chịu trách nhiệm hậu quả xảy ra, đó là nhu cầu về việc phải dự đoán được những hậu quả. Theo diễn biến đó, tác giả Nguyễn Hoàng Anh cho rằng: Không chỉ các cơ quan Nhà nước mà các tổ chức xã hội công dân và khối tư nhân cũng phải có trách nhiệm giải trình trước công chúng và trước các đối tác. Trong khuôn khổ là một hoạt động của Nhà nước, trách nhiệm giải trình được hiểu là trách nhiệm của cơ quan công quyền đã nhận quyền lực từ nhân dân và đặt ra mục tiêu thực thi quyền lực vì nhân dân, thì đồng thời có nghĩa vụ trả lời, lý giải và chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của mình.

Với tư cách là một hoạt động của cơ quan Nhà nước, ở Việt Nam trách nhiệm giải trình còn được đề cập trong hoạt động của các cơ quan trong bộ máy Nhà nước. Chẳng hạn như, trách nhiệm giải trình của cơ quan hành chính Nhà nước. Tác giả Phạm Duy Nghĩa cho rằng, trách nhiệm giải trình trong nền hành chính công là một thuộc tính của người được ủy quyền thực thi công vụ phải có nghĩa vụ giải thích và phải chịu trách nhiệm về những việc mình làm trước người ủy quyền và các bên có liên quan. Trách nhiệm giải trình còn được đặt ra với cơ quan lập pháp và các cơ quan trực thuộc nó, ở Việt Nam, đề cập đến vấn đề này nó thường gắn với trách nhiệm chính trị, trách nhiệm pháp lý của cơ quan, tổ chức và cá nhân phải giải trình. Trách nhiệm giải trình còn đặt ra đối với hệ thống cơ quan tư pháp, theo đó, Tòa án là một chủ thể có vai trò quan trọng trong bảo đảm trách nhiệm giải trình của các cơ quan, công chức Nhà nước và bản thân tòa án cũng phải thực hiện trách nhiệm giải trình, trách nhiệm giải trình này chủ yếu hướng đến việc buộc các cơ quan tư pháp phải chịu trách nhiệm nếu không hoàn thành các chức năng, nghĩa vụ của mình.

Nghiên cứu thực tiễn tại Việt Nam, Chỉ số hiệu quả quản trị và Hành chính công cấp tỉnh (PAPI) đã khẳng định: Bản thân khái niệm trách nhiệm giải trình là một khái niệm khó giải thích vì nó có những cách diễn giải và dịch thuật khác nhau, và rất khó để khẳng định xem nó được thực thi như thế nào. Nói một cách ngắn gọn, khái niệm trách nhiệm giải trình cơ bản là đảm bảo cho người dân, Nhà nước và các tổ chức ngoài Nhà nước có cả khung pháp lý lẫn khả năng buộc các cơ quan và cán bộ Nhà nước phải giải trình về những gì họ làm hoặc không làm khi thực thi chức năng, nhiệm vụ của mình.

Trên phương diện pháp luật, ở Việt Nam trách nhiệm giải trình cũng được đề cập ở những khía cạnh và mức độ khác nhau. Trên cơ sở phân tích các quy định pháp luật về trách nhiệm giải trình của các cơ quan trong Hiến pháp 2013, tác giả Hà Thị Mai Hiên khẳng định: Trách nhiệm giải trình của các cơ quan hiến định là nghĩa vụ của cơ quan Nhà nước ở tầm Hiến pháp có trách nhiệm phải báo cáo, giải thích rõ ràng về những nội dung sự việc các quyết định thuộc thẩm quyền công vụ của mình trước nhân dân và trước các chủ thể có thẩm quyền giám sát theo hiến định. Về phương diện luật thực định, ở Việt Nam hiện nay khái niệm trách nhiệm giải trình chủ yếu được hiểu là trách nhiệm giải thích việc thực thi nhiệm vụ, công vụ hay những vấn đề liên quan đến trách nhiệm quản lý của mình khi được yêu cầu. Theo đó, trách nhiệm giải trình chủ yếu mang tính “bị động” - khi có yêu cầu mới giải trình, tuy nhiên, trên thực tế quan niệm về trách nhiệm giải trình còn rộng hơn, nó không chỉ được thực hiện một cách “bị động” khi có yêu cầu mà còn có thể được thực hiện một cách “chủ động”, ngay cả khi không có yều cầu nhưng chủ thể thấy đó là việc làm cần thiết để tìm được sự ủng hộ, chia sẻ hay đồng thuận về những vấn đề đã hoặc sẽ được thực hiện thuộc phạm vi trách nhiệm, quyền hạn của mình, tạo cơ sở cho việc bảo đảm tính khả thi của các quyết định hay việc làm của mình trên thực tế. 

Các nhà nghiên cứu còn nhận định, cho đến nay về mặt học thuật và pháp lý, vẫn chưa có sự ghi nhận thống nhất khái niệm này, Nghị định số 90/2013/NĐ-CP ngày 8/8/2013 không đưa ra khái niệm đầy đủ về trách nhiệm giải trình, mà chỉ đưa ra khái niệm về giải trình, theo đó, trách nhiệm giải trình chủ yếu được hiểu là trách nhiệm giải thích việc thực thi nhiệm vụ, công vụ hay những vấn đề liên quan đến trách nhiệm quản lý khi được yêu cầu. Tuy nhiên, cần thấy rằng, trong một số trường hợp giải trình không chỉ là trách nhiệm mà cũng có thể được coi là quyền của một chủ thể nào đó được phát biểu, nói lên ý kiến giải thích cho việc làm của mình là đúng đắn, hợp pháp. Do đó, trách nhiệm giải trình trước hết phải dựa trên nhu cầu thấy “cần” phải giải thích của cá nhân người có trách nhiệm, không chỉ là thực hiện do quy định của pháp luật. Mặc dù, không quy định rõ trách nhiệm giải trình là gì, nhưng nếu nhìn nhận một cách toàn diện về các quy định tại Nghị định thì giải trình theo nghĩa phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của các chủ thể đã được thể hiện thông qua quy định về việc xử lý vi phạm trong việc thực hiện các quy định về trách nhiệm giải trình như: nếu cán bộ, công chức, người đứng đầu cơ quan Nhà nước không chấp hành nghiêm quy định về thực hiện trách nhiệm giải trình theo các quy định thì tùy tính chất, mức độ mà bị xử lý theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức. Như vậy, trên phương diện luật thực định, ở Việt Nam hiện nay trách nhiệm giải trình tương đồng với trách nhiệm của công chức phải giải trình, giải thích việc thực thi nhiệm vụ, công vụ hay những vấn đề liên quan đến trách nhiệm quản lý của mình khi được yêu cầu.

Tóm lại, thuật ngữ trách nhiệm giải trình có thể tiếp cận trên nhiều góc độ, khía cạnh và lĩnh vực khác nhau. Qua phân tích các phương diện tiếp cận - đề cập đến thuật ngữ trách nhiệm giải trình sẽ thể hiện một số nội dung cơ bản sau:

Thứ nhất: Trên khía cạnh phạm vi của hoạt động trách nhiệm giải trình có phạm vi tương đối rộng, là một hoạt động diễn ra trong cả khu vực công và khu vực tư (trách nhiệm giải trình của doanh nghiệp, trách nhiệm của các Trường Đại học, trách nhiệm giải trình của khu vực tư…). Ở nghĩa rộng hơn, trách nhiệm giải trình không chỉ là trách nhiệm của Nhà nước trước xã hội mà còn là trách nhiệm của chủ thể quản lý với đối tượng thụ hưởng và chịu sự quản lý nói chung. 

Thứ hai: Trên khía cạnh nội dung của hoạt động có thể thấy có ba quan niệm chính:  Trách nhiệm giải trình là mang tính tự giác, chủ động của các chủ thể (trách nhiệm giải trình chủ động); Trách nhiệm giải trình là nghĩa vụ của một chủ thể trước các chủ thể khác (trách nhiệm giải trình bị động); Trách nhiệm giải trình vừa mang tính tự giác vừa là nghĩa vụ của các chủ thể (trách nhiệm giải trình chủ động và bị động). Dù theo quan niệm nào thì nội dung của việc giải trình đều hàm chứa nghĩa vụ và trách nhiệm cung cấp thông tin, giải thích, trả lời một cách công khai, minh bạch gắn liền với việc nhận trách nhiệm và chịu trách nhiệm về nhiệm vụ, quyền hạn được giao. 
Thứ ba: Trách nhiệm giải trình là thuật ngữ liên quan tới những mong đợi của người dân, người ủy quyền về khả năng chịu trách nhiệm của người được ủy quyền, mọi sự ủy quyền đều đi đôi với trách nhiệm giải trình. Nói cách khác, trách nhiệm giải trình là một thuộc tính của người được ủy quyền, nghĩa là, chủ thể được ủy quyền phải xem việc giải trình như là một trách nhiệm cần phải thực hiện trong quá trình thực hiện quyền lực, thẩm quyền đã được ủy quyền. Do đó, trách nhiệm giải trình trả lời cho câu hỏi, ai là chủ thể thực hiện việc giải trình, ai là chủ thể cần được giải trình, hậu quả của việc không làm đúng và đầy đủ trách nhiệm của mình. 

Thứ tư: Với tư cách là một hoạt động của Nhà nước, trách nhiệm giải trình được xem là phương thức để kiểm soát quyền lực Nhà nước, nhằm góp phần dự báo hành vi, hậu quả và có thể quy kết trách nhiệm người được ủy quyền. Trách nhiệm giải trình không có nghĩa là chờ đến khi hậu quả xảy ra mới suy xét trách nhiệm, mà ngay trong quá trình thực thi quyền lực ủy quyền, người được ủy quyền phải thực hiện trách nhiệm giải trình để người ủy quyền có thể kiểm soát và ngăn chặn kịp thời những tiêu cực có thể xảy ra, đồng thời, nếu để hậu quả xảy ra thì người được ủy quyền phải chịu trách nhiệm, thông qua đó kiểm soát quyền lực mà nhân dân đã giao phó cho Nhà nước trong quá trình thực thi công vụ và khắc phục hành vi, hậu quả.

ThS, NCS Hà Ngọc Anh (Còn nữa)
Theo Tạp chí Tri thức Xanh - Số: 03 - 20

Bình luận: 0