TẠP CHÍ TRI THỨC XANH - CƠ QUAN LÝ LUẬN CỦA VIỆN KHOA HỌC MÔI TRƯỜNG VÀ XÃ HỘI

E-mail:info@ttxonline.vn -  Hotline: 0948565689
thứ sáu, 29/03/2024

Pháp luật tổ chức và tổ chức thực hiện pháp luật về trách nhiệm giải trình trong lĩnh vực dân tộc ở Việt Nam hiện nay

15:32 24/09/2020
Logo header Việt Nam có 54 dân tộc, có truyền thống yêu nước, đoàn kết thống nhất, trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Dân số các dân tộc thiểu số (DTTS) có 14.123.255 người, chiếm 14,7% dân số cả nước. Các DTTS nước ta có số dân không đồng đều, có 06 dân tộc đông trên một triệu người như Tày, Thái, Mường, Khmer, H’Mông và Nùng; có 05 dân tộc dưới một nghìn người như: Si La, Pu Péo, Ơ Đu, Brâu, Rơ Măm; có 08 tỉnh có tỷ lệ DTTS hơn 70% như: Cao Bằng, Hà Giang, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Điện Biên, Lai Châu, Sơn La, Hòa Bình. Các DTTS cư trú chủ yếu ở nông thôn trên địa bàn 51/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, 548 đơn vị cấp huyện và 5.266 đơn vị cấp xã, tập trung ở miền núi, trung du (trừ 03 dân tộc Khmer, Hoa, Chăm cư trú chủ yếu ở đồng bằng).

Đây là nơi có địa hình núi cao, bị chia cắt, cũng là nơi có điều kiện tự nhiên, khí hậu khắc nghiệt, địa hình phức tạp, chia cắt. Trình độ phát triển kinh tế - xã hội của hầu hết các DTTS còn thấp và không đều nhau. Một số DTTS có mức phát triển kinh tế - xã hội khá, như Hoa, Tày, Sán Dìu…, nhưng cũng có nhiều dân tộc còn rất khó khăn như H’Mông, Khơ Mú, La Hủ… Năm 2019, tỷ lệ dân số DTTS chỉ chiếm 14,7% nhưng hộ nghèo chiếm tới 55,27% số hộ nghèo cả nước. Bàn luận đến vấn đề dân tộc, bài viết này sẽ tập trung làm rõ về những quy định của pháp luật trong lĩnh vực dân tộc; quy định của pháp luật về giám sát, trách nhiệm giải trình trong lĩnh vực này, đồng thời đánh giá kết quả thực hiện giám sát và trách nhiệm giải trình trong lĩnh vực dân tộc, từ đó đề xuất các giải pháp nâng cao trách nhiệm giải trình trong lĩnh vực dân tộc hiện nay.

Pháp luật trong lĩnh vực dân tộc thiểu số hiện nay

Hiến pháp 2013 đã hiến định nhiều nội dung liên quan đến quyền, nghĩa vụ, mối quan hệ dân tộc và CSDT... Điều 5 Hiến pháp quy định: “Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển;… Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các DTTS phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước”. Cùng với nội dung tiếp tục khẳng định là: “Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện”, có điểm mới là” tạo điều kiện để các DTTS phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước”. Phương châm phát huy nội lực là một trong những nguyên tắc căn bản trong đổi mới tiếp cận chính sách dân tộc và cần được cụ thể hóa trong các chính sách cụ thể.

Luật, Nghị quyết của Quốc hội

Thống kê qua các khóa Quốc hội gần đây cho thấy đến năm 2018, Quốc hội đã ban hành 86 luật với 219 điều, trong đó giai đoạn 2011 đến 2018, ban hành 61 luật có các nội dung liên quan đến lĩnh vực dân tộc thiểu số và miền núi (DTTS&MN) và vùng đặc biệt khó khăn, trên các lĩnh vực: Về quyền dân sự, hình sự, chính trị: Có 64 điều trong 27 luật qui định về quyền bình đẳng và tạo cơ hội thúc đẩy sự bình đẳng cho đồng bào DTTS; Về lĩnh vực kinh tế, lao động và việc làm: Có 51 điều trong 20 luật quy định các quyền về lao động, việc làm; chính sách hỗ trợ và thúc đẩy tạo việc làm cho đồng bào DTTS; chính sách quản lý đất đai, ưu tiên giao đất cho đồng bào DTTS; chính sách bảo vệ rừng; chính sách đầu tư; chính sách thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội vùng DTTS&MN, vùng đặc biệt khó khăn; Về lĩnh vực giáo dục đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí: Có 14 điều trong 03 luật quy định về phát triển giáo dục đào tạo nói chung và phát triển giáo dục dân tộc nói riêng, phổ cập giáo dục tiểu học; giáo dục trẻ em vùng khó khăn, sử dụng ngôn ngữ DTTS trong giáo dục; các chính sách ưu tiên trong giáo dục đào tạo người DTTS; Về lĩnh vực y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân: Có 15 điều trong 06 luật quy định về thực hiện chương trình dân số, kế hoạch hóa gia đình; nâng cao chất lượng dân số DTTS, nhất là các DTTS rất ít người; ưu tiên thực hiện các chương trình chăm sóc sức khỏe cho đồng bào DTTS&MN, phòng chống các bệnh nguy hiểm; các vấn đề về bảo vệ sức khoẻ nhân dân, bảo hiểm y tế, khám bệnh, chữa bệnh, hành nghề y, dược tư nhân…; Về lĩnh vực văn hóa - thông tin: Có 22 điều trong 13 luật quy định về bảo tồn, phát huy các giá trị truyền thống, bản sắc văn hóa các DTTS; xuất bản các ấn phẩm liên quan đến bảo vệ các di sản văn hóa của các cộng đồng DTTS; tăng cường tiếp cận thông tin; phổ biến giáo dục pháp luật; Về lĩnh vực bảo vệ môi trường: Có 05 điều trong 03 luật quy định về các chính sách bảo vệ môi trường, bảo đảm nguồn nước cho người dân, nhất là vùng miền núi, vùng đặc biệt khó khăn; đảm bảo cuộc sống cho người dân ở vùng đệm các khu bảo tồn, vườn quốc gia; Về lĩnh vực công tác cán bộ, xây dựng hệ thống chính trị: Có 34 điều trong 07 luật quy định về chế độ thu hút, ưu tiên trong tuyển dụng, bồi dưỡng, chế độ đãi ngộ cán bộ, công chức công tác ở vùng miền núi, hải đảo và vùng đặc biệt khó khăn…; Về lĩnh vực quốc phòng, an ninh, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trong vùng DTTS: Có 14 điều trong 07 luật quy định về giáo dục quốc phòng và an ninh; bảo vệ chủ quyền an ninh quốc gia vùng biên giới và vùng DTTS. 

Ngoài ra, từ năm 2011 đến 2018, Quốc hội đã ban hành 15 Nghị quyết với 24 Điều (gồm 8 nghị quyết về kinh tế - xã hội và 7 nghị quyết chuyên đề) có nội dung liên quan đến phát triển kinh tế - xã hội vùng DTTS&MN, trên các lĩnh vực: Phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo; Kết cấu hạ tầng, xây dựng nông thôn mới; Giáo dục đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí; Về y tế chăm sóc sức khỏe và nâng cao chất lượng dân số đồng bào vùng DTTS&MN; Về đất đai, bảo vệ, phát triển rừng, bảo vệ môi trường sinh thái và định canh, định cư...

Chính sách dân tộc do Chính phủ ban hành giai đoạn 2011-2020

Nhóm chính sách khung 

Giai đoạn này Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản chính sách khung như Nghị định 05/2011/NĐ-CP ngày 14/01/2011 về công tác dân tộc. Đây là văn bản quy phạm pháp luật cao nhất của Chính phủ hiện hành quy định nội dung công tác dân tộc và khung chính sách dân tộc làm cơ sở để các bộ, ngành trung ương và địa phương căn cứ thực hiện. Thủ tướng Chính phủ ban hành Chiến lược công tác dân tộc đến năm 2020 (Quyết định số 449/QĐ-TTg ngày 12/3/2013). Chiến lược đã cụ thể hóa các chỉ thị, nghị quyết của Đảng về công tác dân tộc qua việc xác định các mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể đến năm 2020, huy động sự tham gia của cả hệ thống chính trị và đây là định hướng khung quan trọng về công tác dân tộc. Đặc biệt, Quyết định số 1557/QĐ-TTG ngày 10/9/2015 của Thủ tướng chính phủ về “Phê duyệt một số chỉ tiêu thực hiện các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ đối với đồng bào DTTS gắn với mục tiêu phát triển bền vững sau năm 2015”, theo đó, có 10 điểm quan trọng mang tính định hướng căn bản trong xây dựng và tổ chức chính sách dân tộc. Ngày 27/10/2010, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 1971/CT-TTg về tăng cường công tác dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Chỉ thị số 28/CT-TTg ngày 10/9/2014 về nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về công tác dân tộc.

Có thể nói giai đoạn 2011-2018, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã có nhiều đổi mới trong việc xây dựng và ban hành CSDT. Đặc biệt là ban hành chính sách mang tính chiến lược dài hạn, phục vụ cho mục tiêu phát triển toàn diện, bền vững vùng đồng bào DTTS.

Các chính sách cụ thể liên quan đến vùng miền núi, dân tộc 

Theo báo cáo của Chính phủ (số 426/BC-CP ngày 04/10/2018), trong giai đoạn 2011-2018, Chính phủ tiếp tục thực hiện, sửa đổi, bổ sung 38 văn bản CSDT đã ban hành trong các giai đoạn trước năm 2010 (05 nghị định, 01 nghị quyết của Chính phủ và 36 quyết định của Thủ tướng Chính phủ); đồng thời, đã ban hành 104 văn bản CSDT liên quan đến DTTS&MN (21 nghị định, 01 nghị quyết và 82 quyết định), chia thành 2 giai đoạn:

Giai đoạn 2011-2015, theo 3 nhóm CSDT

Nhóm chính sách đặc thù theo từng dân tộc và nhóm dân tộc: Tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh trật tự đối với vùng đồng bào Chăm, Hoa, Khmer, Mông; chính sách phát triển kinh tế - xã hội đối với các dân tộc đặc biệt khó khăn như Mảng, La Hủ, Cống, Cờ Lao; chính sách phát triển giáo dục cho các dân tộc rất ít người...

Nhóm chính sách phát triển kinh tế - xã hội theo vùng, địa bàn: Phát triển vùng Trung du và Miền núi phía Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cơ cấu các ngành, lĩnh vực, phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển sản xuất, giải quyết những vấn đề  do ảnh hưởng thiên tai, biến đổi khí hậu, quản lý khai thác khoáng sản…gắn với giải quyết CSDT.

Nhóm chính sách phát triển kinh tế - xã hội theo lĩnh vực, ngành: gồm các chính sách hỗ trợ phát triển công nghiệp, sản xuất nông lâm nghiệp, thương mại và biên mậu; giảm nghèo, đào tạo nghề và giải quyết việc làm; nước sinh hoạt, bảo vệ môi trường; phát triển giáo dục và đào tạo; bảo tồn và phát triển văn hóa; du lịch; thông tin truyền thông; y tế, dân số, chăm sóc sức khỏe; củng cố hệ thống chính trị; phổ biến giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý. 

Giai đoạn 2016 đến 2018

Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành 55 văn bản (gồm 10 nghị định, 45 quyết định), tập trung các lĩnh vực: phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp, các chương trình giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới… nhằm giải quyết khó khăn, bức xúc của hộ nghèo ở vùng khó khăn và đặc biệt khó khăn, chính sách tuyển dụng, bố trí công chức, viên chức v.v.

Qua báo cáo của Chính phủ cho thấy văn bản CSDT của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành còn hiệu lực đến năm 2018 có 142 văn bản, với 11 nhóm chính sách. Điểm đáng lưu ý là ngoài một số văn bản chính sách có hiệu lực lâu dài (một số nghị định) thì hầu hết các văn bản chính sách sẽ hết hiệu lực vào năm 2020. Điều này đặt ra yêu cầu rà soát, sửa đổi, bổ sung ban hành chính sách mới kịp thời trong hệ thống CSDT.

Thực hiện pháp luật về giải trình trong lĩnh vực dân tộc

Quy định của pháp luật về giám sát và giải trình trong lĩnh vực dân tộc

Hiến pháp năm 2013 - Khoản 2, Điều 70 quy định: Quốc hội “Thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội; xét báo cáo công tác của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước và cơ quan khác do Quốc hội thành lập”. Khoản 3, Điều 74 quy định: Uỷ ban thường vụ Quốc hội: “Giám sát việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; giám sát hoạt động của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước và cơ quan khác do Quốc hội thành lập”; Đồng thời quy định tại khoản 7 của Điều này: “Giám sát và hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân; bãi bỏ nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp, luật và văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; giải tán Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong trường hợp Hội đồng nhân dân đó làm thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của Nhân dân”. Tại Điều 75, khoản 2 quy định: Hội đồng Dân tộc: “nghiên cứu và kiến nghị với Quốc hội về công tác dân tộc; thực hiện quyền giám sát việc thi hành chính sách dân tộc, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số”. Khoản 3 Điều này quy định: “Chủ tịch Hội đồng dân tộc được mời tham dự phiên họp của Chính phủ bàn về việc thực hiện chính sách dân tộc. Khi ban hành quy định thực hiện chính sách dân tộc, Chính phủ phải lấy ý kiến của Hội đồng dân tộc”. Điều 77 quy định: “Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội có quyền yêu cầu thành viên Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán nhà nước và cá nhân hữu quan báo cáo, giải trình hoặc cung cấp tài liệu về những vấn đề cần thiết. Người được yêu cầu có trách nhiệm đáp ứng yêu cầu đó” và “Các cơ quan nhà nước có trách nhiệm nghiên cứu và trả lời những kiến nghị của Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội”. Điều 80 của Hiến pháp quy định: “Đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán nhà nước”; “Người bị chất vấn phải trả lời trước Quốc hội tại kỳ họp hoặc tại phiên họp Ủy ban thường vụ Quốc hội trong thời gian giữa hai kỳ họp Quốc hội; trong trường hợp cần thiết, Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội cho trả lời bằng văn bản” và “Đại biểu Quốc hội có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân đó. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có trách nhiệm trả lời những vấn đề mà đại biểu Quốc hội yêu cầu trong thời hạn luật định”.

Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân

Ngày 20/11/2015, Quốc hội Khóa XIII thông qua Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân (số 87/2015/QH13). Trên cơ sở quy định của Hiến pháp 2013, Luật cụ thể hóa thông qua việc quy định rõ về thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ của Quốc hội; Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội; Đoàn đại biểu Quốc hội; Đại biểu Quốc hội; Hội đồng nhân dân, các cơ quan của Hội đồng nhân dân và đại biểu Hội đồng nhân dân trong hoạt động giám sát. Đồng thời, Luật cũng quy định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ của các cơ quan, tổ chức, các nhân chịu sự giám sát và các hình thức thực hiện giám sát.

Luật cũng đã làm rõ nội hàm các khái niệm, như: Giám sát: Là việc chủ thể giám sát theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, xử lý theo thẩm quyền hoặc yêu cầu, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý; Chất vấn: là việc đại biểu Quốc hội nêu vấn đề thuộc trách nhiệm của Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán nhà nước; đại biểu Hội đồng nhân dân nêu vấn đề thuộc trách nhiệm của Chủ tịch Ủy ban nhân dân, thành viên khác của Ủy ban nhân dân, Chánh án Tòa án nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân, Thủ trưởng cơ quan thuộc Ủy ban nhân dân cùng cấp và yêu cầu những người này trả lời về trách nhiệm của mình đối với vấn đề được nêu; Giải trình: Là việc cơ quan, cá nhân hữu quan giải thích, làm rõ trách nhiệm của mình trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao theo yêu cầu của chủ thể giám sát quy định tại Luật này.

Trên cơ sở tổng kết thực tiễn thực hiện các quy định của Hiến pháp và pháp luật về thẩm quyền của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội yêu cầu báo cáo, giải trình trước đây, Hiến pháp 2013, Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015 đã quy định về tổ chức phiên giải trình tại Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội. Đồng thời, quy định tương đối cụ thể về thẩm quyền của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội yêu cầu báo cáo giải trình về những vấn đề thuộc lĩnh vực mình phụ trách cũng như xác định rõ trách nhiệm của các cá nhân liên quan đến báo cáo, giải trình tại phiên họp của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội.

Nghị định của Chính phủ về trách nhiệm giải trình

Ngày 08/8/2013, Chính phủ ban hành Nghị định số 90/2013/NĐ-CP “Quy định trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao”. Theo đó, quy định: Giải trình là việc cơ quan nhà nước cung cấp, giải thích, làm rõ các thông tin về thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao và trách nhiệm của mình trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đó; Người yêu cầu giải trình là cơ quan, tổ chức, cá nhân có yêu cầu cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền giải trình về những nội dung liên quan đến việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình; Người giải trình là người đứng đầu cơ quan nhà nước hoặc người được người đứng đầu cơ quan nhà nước ủy quyền thực hiện việc giải trình.

Nghị định gồm 4 Chương, 20 Điều quy định chi tiết về phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng, nguyên tắc thực hiện; quyền, nghĩa vụ của người yêu cầu giải trình và người giải trình; trình tự, thủ tục thực hiện việc giải trình; tổ chức thực hiện giải trình. Có thể nói, đây là văn bản của Chính phủ quy định khá chi tiết về hoạt động giải trình, tạo cơ sở pháp lý cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện việc giải trình trong thực tiễn. 

Kết quả thực hiện giám sát, giải trình trong lĩnh vực dân tộc

Hoạt động giám sát

Hiến pháp 2013 và Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho hoạt động giám sát của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân. Nhờ đó, hoạt động giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội (trong đó có Hội đồng dân tộc) đối với lĩnh vực dân tộc ngày càng đi vào chiều sâu và có hiệu quả hơn, đáp ứng được yêu cầu trong tình hình mới. 

Những năm gần đây, nhất là từ Quốc hội khóa XIII đến nay, Hội đồng dân tộc đã tăng cường giám sát tình hình thực hiện chính sách, pháp luật đối với vùng dân tộc thiểu số và miền núi (từ năm 2011 đến 2019, Hội đồng Dân tộc đã chủ trì tiến hành 13 cuộc giám sát chuyên đề, trong đó có 01 chuyên đề giám sát của Quốc hội, 02 chuyên đề giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, 10 chuyên đề giám sát của Hội đồng Dân tộc). Qua giám sát, nhiều vấn đề bức xúc của cuộc sống, liên quan đến đồng bào dân tộc thiểu số được quan tâm xem xét như: phân bổ thu chi ngân sách nhà nước; thực hiện các chính sách đầu tư cho miền núi, vùng dân tộc thiểu số; đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực lao động người dân tộc thiểu số; chính sách quốc phòng - an ninh gắn với việc phát triển kinh tế - xã hội ở các vùng miền núi, biên giới, hải đảo; tình hình xây dựng các công trình trọng điểm…

Qua hoạt động giám sát, Hội đồng dân tộc đã có những đề xuất, kiến nghị thiết thực với Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các Bộ, ngành hữu quan, nhiều vấn đề kiến nghị của Hội đồng dân tộc đã được nghiên cứu, tiếp thu và cụ thể hóa trong quá trình xây dựng, ban hành và thực hiện chính sách dân tộc. 

Hoạt động giải trình

Về giám sát thông qua hoạt động giải trình (điều trần), đây là hình thức giám sát mới, được Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội khóa XII bắt đầu thực hiện thí điểm theo Kết luận của Đảng đoàn Quốc hội theo Đề án nâng cao hiệu lực, hiệu quả giám sát của Quốc hội. Tổ chức phiên giải trình là một hình thức giám sát quan trọng của các cơ quan của Quốc hội được quy định cụ thể trong Hiến pháp và các luật liên quan đến tổ chức, hoạt động của Quốc hội. Hoạt động giải trình được tổ chức tốt và thường xuyên sẽ góp phần tăng cường hiệu quả, hiệu lực giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và đại biểu Quốc hội. Theo đó, Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội có quyền yêu cầu thành viên Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán nhà nước và cá nhân hữu quan giải trình về những vấn đề cần thiết, thuộc lĩnh vực Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội phụ trách. Người được yêu cầu giải trình có trách nhiệm đáp ứng yêu cầu đó. Hoạt động giải trình được tổ chức tại phiên họp Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội. Sau mỗi phiên giải trình, Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội phải kết luận về vấn đề được giải trình. Kết luận của Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội được gửi đến Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các đại biểu Quốc hội và các cơ quan, tổ chức hữu quan. Người được yêu cầu giải trình có trách nhiệm báo cáo, giải trình theo yêu cầu của Hội đồng Dân tộc và Ủy ban của Quốc hội.  Đến nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII, hoạt động giải trình tại Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội đã được tăng cường, đặc biệt là sau khi có Nghị quyết số 27/2012/QH13 của Quốc hội, với yêu cầu: tăng cường hoạt động giải trình tại Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội về những vấn đề thuộc lĩnh vực Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội phụ trách. 

Nội dung các phiên giải trình trên lĩnh vực dân tộc thiểu số trải rộng trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, là những vấn đề cử tri quan tâm, như: Chính sách bồi thường, hỗ trợ di dân tái định cư các công trình thủy điện; Thực hiện chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội đối với các dân tộc rất ít người; Chính sách giải quyết đất ở, nhà ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt cho đồng bào dân tộc thiểu số; Việc thực hiện chính sách, pháp luật về giảm nghèo đối với đồng bào dân tộc thiểu số, giai đoạn 2005 - 2012; Việc quản lý, sử dụng đất đai tại các nông trường, lâm trường quốc doanh; Tình hình thực hiện chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức và người hưởng lương trong lực lượng vũ trang công tác tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, theo Nghị định số 116/2010/NĐ-CP ngày 24/12/2010 của Chính phủ…

Hoạt động giải trình tại Hội đồng Dân tộc và các ủy ban của Quốc hội đã và đang trở thành công cụ đắc lực cho các cơ quan của Quốc hội trong việc tham mưu, giúp Quốc hội giám sát, thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, tờ trình... Cũng thông qua giải trình, những vấn đề nóng, phức tạp trong quản lý nhà nước, hoạch định chính sách đã được đưa ra thảo luận công khai, đa chiều, làm tăng lòng tin của dư luận, cử tri vào quy trình làm việc công khai, minh bạch của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội.

Các phiên giải trình đã góp phần thay đổi theo hướng tích cực, thúc đẩy cơ quan, cá nhân có trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ trong lĩnh vực liên quan; thay đổi chính sách, các quy định pháp luật; làm cho hoạt động của cơ quan nhà nước trở nên minh bạch hơn, các chủ thể liên quan có cơ hội tham gia vào quá trình xây dựng ban hành chính sách. Thông qua các phiên giải trình, nhiều vấn đề thời sự, nổi cộm trong đời sống kinh tế - xã hội của vùng dân tộc thiểu số và miền núi được các cơ quan có thẩm quyền làm rõ, chỉ ra những giải pháp khắc phục những bất cập hạn chế từ quy định của pháp luật đến công tác tổ chức thực hiện, qua đó kịp thời có những đề xuất giải pháp khắc phục được cử tri, nhân dân cả nước, đặc biệt là đồng bào các dân tộc thiểu số đánh giá cao.

Một số vấn đề đặt ra đối với trách nhiệm giải trình

Thứ nhất: Trong 5 chủ thể có thẩm quyền yêu cầu trách nhiệm giải trình của Chính phủ thì chủ yếu vẫn tập trung vào yêu cầu của Quốc hội, trong khi không khai thác được vai trò quan trọng của Tòa án trong việc yêu cầu trách nhiệm giải trình của Chính phủ. Nếu nhìn nhận vấn đề tam quyền phân lập với 3 nhánh quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ở thế cân bằng để kiểm soát quyền lực lẫn nhau thì ở khía cạnh này vị trí của Tòa án - đại diện cho nhánh quyền tư pháp không được nhìn nhận thích đáng và bản thân Tòa án cũng chưa hành xử được như mong đợi. Vì vậy, việc thừa nhận, ghi nhận chức năng bảo hiến cho hệ thống Tòa án hoặc thành lập cơ quan tài phán hiến pháp độc lập hay Tòa án bảo hiến là tiền đề quan trọng để thực hiện thẩm quyền của Tòa án trong việc yêu cầu và giám sát trách nhiệm giải trình của Chính phủ.

Thứ hai: Nếu phân chia trách nhiệm giải trình của Chính phủ theo hàng dọc và hàng ngang thì rõ ràng cho thấy, ở Việt Nam, trách nhiệm giải trình của Chính phủ được thiết lập theo hàng ngang với quyền yêu cầu trách nhiệm giải trình của các thiết chế khác như: Thanh tra Chính phủ; Kiểm toán Nhà nước; các tổ chức xã hội; doanh nghiệp đều thiếu sự chính danh, thiếu thẩm quyền, thiếu năng lực về con người, vật chất, quy trình cũng như cơ sở pháp lý để thiết lập trách nhiệm giải trình của Chính phủ theo chiều ngang.

Thứ ba: Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với yêu cầu và giám sát trách nhiệm giải trình của Chính phủ chưa được đảm bảo. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một thiết chế vừa mang tính chính trị vừa mang tính xã hội, không thuộc nhánh quyền lập pháp, hành pháp hay tư pháp. Dù đóng vai trò giám sát và phản biện xã hội, nhưng thẩm quyền của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam yêu cầu trách nhiệm giải trình từ Chính phủ chưa xây dựng được cơ chế đảm bảo phù hợp trên cả phương diện quy định pháp lý lẫn tiềm lực nhân sự và năng lực chuyên môn.

Thứ tư: Quyền yêu cầu của người dân chưa được thực hiện hiệu quả, dường như người dân chưa quan tâm về quyền yêu cầu giải trình của cơ quan quản lý nhà nước, cũng như chưa có nhu cầu về việc buộc cơ quan quản lý nhà nước phải giải trình. Hoạt động giải trình chủ yếu chỉ thực hiện khi có yêu cầu, giới hạn trong nội bộ cơ quan quản lý nhà nước. 

Đề xuất, kiến nghị

Một là: Mở rộng thêm đối tượng có trách nhiệm giải trình. Nghị định 90/2013/NĐ-CP chỉ quy định áp dụng đối với các cơ quan hành chính Nhà nước và các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc các cơ quan hành chính Nhà nước. Tuy nhiên, để tăng trách nhiệm giải trình thì pháp luật cần mở rộng thêm đối tượng giải trình. Theo đó, tất cả các cơ quan Nhà nước sử dụng ngân sách Nhà nước đều phải chịu trách nhiệm giải trình nhằm công khai, minh bạch và tăng cường sự giám sát của nhân dân đối với bộ máy Nhà nước. Điều này làm cho các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân sử dụng ngân sách Nhà nước có trách nhiệm hơn trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, giảm nguy cơ tham nhũng.

Hai là: Bổ sung quy định về xử lý vi phạm trách nhiệm giải trình. Một trong những nguyên nhân làm cho hoạt động giải trình không đạt được hiệu quả là do thiếu các quy định xử lý vi phạm trong việc giải trình. Vì vậy, cần bổ sung quy định cụ thể về việc xử lý vi phạm đối với hành vi vi phạm về trách nhiệm giải trình. Hiện nay, các kết luận sau giải trình chỉ dừng lại ở những kiến nghị, yêu cầu như những “lời khuyên”, do không quy định cụ thể các biện pháp chế tài, hình thức xử lý các vấn đề sau giải trình nhằm ràng buộc đối tượng phải khắc phục sai sót, khuyết điểm những vấn đề mà chủ thể yêu cầu.

Ba là: Quy định về sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức, đơn vị trong việc thực hiện trách nhiệm giải trình. Trách nhiệm giải trình yêu cầu các cơ quan trong bộ máy nhà nước cần có sự phối hợp với nhau để làm rõ các nội dung cần giải trình theo quy định của pháp luật, các nội dung giải trình cần được minh bạch và công khai.

Bốn là: Tăng cường sự tham gia của nhân dân để giám sát việc thực hiện trách nhiệm giải trình của cơ quan, tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ giải trình theo quy định của pháp luật. Pháp luật cần quy định cụ thể việc tiếp cận thông tin của công dân trong phòng, chống tham nhũng để người dân thực hiện quyền giám sát việc thực hiện trách nhiệm giải trình ngày càng thực chất hơn. 

Năm là: Tổ chức đối thoại có thể được xem là hình thức giải trình hiệu quả, góp phần giảm đáng kể các vụ khiếu kiện, thắc mắc của người dân đến các cơ quan nhà nước. Cán bộ lãnh đạo các cấp trực tiếp đối thoại với dân là hình thức sinh hoạt dân chủ, công khai và có tính quần chúng cao. Khi đối thoại, các bên cần tranh luận, chất vấn một cách bình đẳng, thể hiện sự tôn trọng lẫn nhau. Đây cũng là nét văn hóa trong giao tiếp giữa cán bộ với người dân.   

TS. Triệu Văn Bình - Phó  Vụ trưởng Vụ Dân tộc, Văn phòng Quốc hội
Theo Tạp chí Tri thức Xanh - Số 29 - 20

Bình luận: 0