TẠP CHÍ TRI THỨC XANH - CƠ QUAN LÝ LUẬN CỦA VIỆN KHOA HỌC MÔI TRƯỜNG VÀ XÃ HỘI

E-mail:info@ttxonline.vn -  Hotline: 0948565689
thứ bảy, 20/04/2024

Pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật về công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong công tác phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay

01:25 11/09/2020
Logo header Công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình được xem là một trong những yếu tố cấu thành không thể thiếu trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan Nhà nước. Việc thực hiện tốt công khai minh bạch và trách nhiệm giải trình trong các cơ quan Nhà nước ở Việt Nam hiện nay là một trong những giải pháp quan trọng nhằm phòng, chống tham nhũng.

Để làm rõ vấn đề này, trong khuôn khổ bài viết, tác giả tập trung trình bày khái quát về thực trạng phòng chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay, đánh giá thực trạng pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật về công khai minh bạch và trách nhiệm giải trình, trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong công tác phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay. 

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng 

Khái quát thực trạng công tác phòng chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay

Ngày 23/1/2020, Tổ chức Minh bạch Quốc tế (TI) công bố Chỉ số Cảm nhận tham nhũng (CPI) 2019, trong đó xếp hạng 180 quốc gia và vùng lãnh thổ dựa trên cảm nhận của các doanh nhân và chuyên gia về tình hình tham nhũng năm 2019 trong khu vực công tại các quốc gia và vùng lãnh thổ. Năm 2019, Việt Nam đạt 37/100 điểm, tăng 4 điểm so với năm 2018, đứng thứ 96/180 quốc gia, vùng lãnh thổ trong bảng xếp hạng toàn cầu, tăng 21 bậc so với năm 2018. Đây là mức điểm cao nhất mà TI đánh giá đối với Việt Nam từ trước đến nay và năm 2019 cũng là năm có mức tăng điểm cao nhất từ trước đến nay.

Có thể thấy, tham nhũng đang từng bước được kiềm chế và có chiều hướng thuyên giảm, góp phần giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế – xã hội, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên,bên cạnh những kết quả đạt được, cũng phải thẳng thắn nhìn nhận công tác phòng, chống tham nhũng vẫn còn những tồn tại, hạn chế. Công tác phòng, chống tham nhũng ở một số địa phương, bộ, ngành chưa có sự chuyển biến rõ rệt, vẫn còn tình trạng “trên nóng, dưới lạnh”, nể nang, né tránh, ngại va chạm; việc phát hiện, xử lý tham nhũng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu; tự kiểm tra, tự phát hiện và xử lý tham nhũng trong nội bộ cơ quan, đơn vị vẫn là khâu yếu. Tình trạng nhũng nhiễu, tiêu cực trong khu vực hành chính, dịch vụ công vẫn gây bức xúc trong người dân, doanh nghiệp.

Có nhiều nguyên nhân làm phát sinh tham nhũng; trong đó, thiếu công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị và thiếu trách nhiệm giải trình là những nguyên nhân chủ yếu tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các hành vi tham nhũng. Theo kết quả nghiên cứu được cộng đồng quốc tế thừa nhận, tham nhũng được hình thành theo công thức: tham nhũng = độc quyền + bưng bít thông tin – trách nhiệm giải trình. Như vậy, giảm độc quyền, bưng bít thông tin và tăng trách nhiệm giải trình chính là chìa khóa để giảm tham nhũng. 

Ở nhiều nước trên thế giới, trách nhiệm giải trình còn được coi là một trong những trụ cột của nền hành chính, là yếu tố cấu thành đặc biệt quan trọng của một nền quản trị tốt. Trong một nghiên cứu của VCCI, sự gắn kết giữa trách nhiệm giải trình và công khai, minh bạch được thể hiện rất rõ: “Trách nhiệm giải trình gắn liền với thuộc tính minh bạch và liêm chính. Để bảo đảm tính liêm chính và minh bạch, đòi hỏi phải xác định rõ về trách nhiệm giải trình hay nói cách khác là phải làm rõ cơ chế xác định trách nhiệm. Trách nhiệm giải trình là khái niệm theo đó các cá nhân, cơ quan và tổ chức (nhà nước, tư nhân cũng như xã hội dân sự) phải chịu trách nhiệm thực hiện một cách đúng đắn chức trách nhiệm vụ của mình và có khả năng giải thích, làm rõ hoặc cung cấp thông tin về quá trình thực hiện đó”.

Thực trạng pháp luật về công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong công tác phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay

Trong những năm vừa qua, nhận thức được diễn biến phức tạp của tình trạng tham nhũng, về tác hại của tham nhũng, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật về phòng, chống tham nhũng như: Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa X) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, Kết luận số 21-KL/TW ngày 25 tháng 5 năm 2012 của Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; Chiến lược quốc gia về phòng, chống tham nhũng đến năm 2020; Luật phòng, chống tham nhũng và các văn bản hướng dẫn thi hành;… Đây là những cơ sở quan trọng cho công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng của nước ta. 

Pháp luật về phòng, chống tham nhũng đã có những quy định mang tính phòng ngừa và coi đây là giải pháp mang tính chiến lược, căn bản, lâu dài. Các quy định về vấn đề này tập trung vào quy định nguyên tắc và nội dung công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị. Công khai, minh bạch cùng trách nhiệm giải trình được coi là những giải pháp có hiệu quả trong phòng, chống tham nhũng. Trong đó, trách nhiệm giải trình được coi là một sự công khai, minh bạch ở cấp độ cao hơn, sâu hơn.Và, công khai, minh bạch lại là cơ sở để thực hiện trách nhiệm giải trình một cách hiệu quả. 

Công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị là biện pháp quan trọng đầu tiên để ngăn ngừa tham nhũng được quy định cụ thể trong Luật phòng, chống tham nhũng. Công khai, minh bạch sẽ làm cho công chức Nhà nước có ý thức hơn trong việc thực hiện chức trách, công vụ của mình theo đúng trình tự, thủ tục, thẩm quyền mà pháp luật quy định và tạo điều kiện để người dân giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước. Đặc biệt, trong giải pháp về công khai, minh bạch hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị có quy định về việc thực hiện trách nhiệm giải trình của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về quyết định, hành vi của mình trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao trước cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền, lợi ích hợp pháp bị tác động trực tiếp bởi quyết định, hành vi đó khi có yêu cầu (Điều 15 Luật Phòng, chống tham nhũng).

Công khai, minh bạch thông tin hoạt động chính là một cách thức quan trọng để thực hiện trách nhiệm giải trình trong nội bộ cơ quan Nhà nước, nói cách khác đó chính là một hình thức giải trình chủ động của cơ quan Nhà nước trong nội bộ. Luật phòng, chống tham nhũng đã có những quy định cụ thể liên quan đến việc công khai, minh bạch, trong đó có công khai, minh bạch trong nội bộ cơ quan Nhà nước. Theo đó, cơ quan, tổ chức, đơn vị phải công khai, minh bạch thông tin về tổ chức, hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị mình, trừ nội dung thuộc bí mật nhà nước, bí mật kinh doanh và nội dung khác theo quy định của pháp luật. Cơ quan, tổ chức, đơn vị phải công khai, minh bạch việc thực hiện chính sách, pháp luật liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động, cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang và công dân; Việc bố trí, quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công hoặc kinh phí huy động từ các nguồn hợp pháp khác; Công tác tổ chức cán bộ của cơ quan, tổ chức, đơn vị; quy tắc ứng xử của người có chức vụ, quyền hạn và công khai, minh bạch về thủ tục hành chính.

Với quan niệm trên bình diện rộng, trách nhiệm giải trình gắn với việc công khai, minh bạch hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị nhằm bảo đảm giám sát việc thực thi quyền lực Nhà nước. Trên bình diện hẹp, trách nhiệm giải trình của cán bộ, công chức và người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức, đơn vị lại có ý nghĩa trực tiếp hơn đối với công tác phòng, chống tham nhũng. Giải trình của cán bộ, công chức và người có thẩm quyền thường được phân thành hai loại là: giải trình trong hệ thống (tập trung vào giải trình việc tuân thủ các nguyên tắc, quy định và kiểm soát từ trên xuống - giải trình hướng lên trên) và giải trình ra bên ngoài (tập trung vào giải trình đối với kết quả hoạt động, kết quả thực hiện nhiệm vụ, công vụ trước nhân dân). Dù giải trình trong hệ thống hay giải trình ra bên ngoài thì trách nhiệm giải trình trong trường hợp này thường gắn với những vụ việc cụ thể liên quan đến trách nhiệm công vụ đã và đang được thực hiện. Do đó, trách nhiệm giải trình rất có ý nghĩa cho việc ngăn chặn, phòng ngừa các hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn vì động cơ vụ lợi. Liên quan đến vấn đề này, Nghị định số 90/2013/NĐ-CP quy định trách nhiệm giải trình của cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao và Nghị định 59/2019/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và hướng dẫn thi hành Luật phòng, chống tham nhũng đã quy định cụ thể điều kiện tiếp nhận yêu cầu giải trình; quyền, nghĩa vụ của người yêu cầu giải trình và người giải trình; trình tự, thủ tục của việc giải trình và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc thực hiện các quy định về trách nhiệm giải trình. 

Nhìn ở góc độ rộng hơn, trách nhiệm giải trình của cán bộ, công chức, người có thẩm quyền không chỉ là trách nhiệm giải trình việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ mà còn bao gồm cả giải trình về nguồn gốc tài sản, gắn liền với việc công khai tài sản, thu nhập bởi lẽ: “quy định về công khai thu nhập tài sản là một lời nhắc nhở hiệu quả đối với các công chức về bảo đảm trách nhiệm giải trình đi kèm với chức trách”. Điều này cũng được khẳng định tại Điều 20 Công ước Liên Hợp quốc về chống tham nhũng về quy định hành vi làm giàu bất hợp pháp đối với “việc tài sản của một công chức tăng đáng kể so với thu nhập hợp pháp của công chức mà công chức này không giải thích được một cách hợp lý về lý do tăng đáng kể như vậy”.

Thực hiện pháp luật về công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong công tác phòng chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay

Thứ nhất: Trong quan hệ nội bộ, nhiều cơ quan, tổ chức, đơn vị đã chủ động công khai, minh bạch các thông tin liên quan đến tổ chức bộ máy, công tác cán bộ, kết quả hoạt động của mình theo các hình thức công khai đã được quy định.

Trong giai đoạn thực hiện chương trình cải cách hành chính (2011-2020), việc chủ động công khai, minh bạch hoạt động của các cơ quan đã đạt được bước tiến đáng ghi nhận. Nhiều cơ quan còn công khai các nội dung thông tin đó trên phương tiện thông tin đại chúng và trang thông tin điện tử để cán bộ, công chức, nhân dân có thể giám sát. Người đứng đầu cơ quan, đơn vị bước đầu thực hiện trách nhiệm giải trình trong quản lý và điều hành hoạt động của cơ quan, đơn vị; trong quản lý, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng, thực hiện chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức, cụ thể như: Tất cả các cơ quan đều tổ chức các cuộc họp giao ban định kỳ, hàng tháng, hành quý và 06 tháng để đánh giá kết quả thực hiện các nhiệm vụ được giao và đề ra các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu phải thực hiện trong thời gian tới của cơ quan, đơn vị. Việc tuyển dụng cán bộ, công chức, viên chức và người lao động khác vào cơ quan, tổ chức, đơn vị được công khai về số lượng, tiêu chuẩn, hình thức và kết quả tuyển dụng. Việc quy hoạch, đào tạo, bổ nhiệm, chuyển ngạch, luân chuyển, điều động, khen thưởng, cho thôi việc, cho thôi giữ chức vụ, miễn nhiệm, bãi nhiệm, kỷ luật, hưu trí đối với cán bộ, công chức, viên chức và người lao động khác cũng phần nào được công khai, minh bạch trong nội bộ cơ quan, đơn vị. Một số cơ quan tiến hành báo cáo công khai công tác tổ chức cán bộ tại hội nghị cán bộ, công chức, viên chức hàng năm, tiếp nhận các thắc mắc của cán bộ, công chức, viên chức liên quan tới vấn đề này, giải trình trước hội nghị hoặc giải trình bằng văn bản với người có kiến nghị. Việc sử dụng, thu chi và quyết toán ngân sách hàng năm cũng bước đầu được công khai tại cơ quan, tổ chức, đơn vị. Cán bộ, công chức, viên chức, người lao động được xem và đưa ra những thắc mắc liên quan đến việc thu chi ngân sách hàng năm của đơn vị, đưa ra những kiến nghị liên quan.

Các cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong cơ quan, tổ chức, đơn vị ngày càng thực hiện tốt hơn các nội dung liên quan trách nhiệm giải trình trong nội bộ cơ quan thông qua việc thực hiện chế độ báo cáo theo định kỳ hoặc đột xuất theo yêu cầu của cấp trên. Chế độ báo cáo hiện nay đang được áp dụng thường xuyên tại các cơ quan, tổ chức, đơn vị. Chất lượng các báo cáo này cũng phần nào được bảo đảm hơn, cán bộ công chức một số cơ quan, tổ chức, đơn vị được yêu cầu báo cáo chi tiết từng nhiệm vụ được đảm bảo trong năm, tiến độ và chất lượng hoàn thành nhiệm vụ được giao. Cán bộ, công chức còn thực hiện thực hiện phê bình và tự phê bình nghiêm túc, phát huy ưu điểm, có giải pháp sửa chữa khuyết điểm; thẳng thắn đóng góp ý kiến để xây dựng nội bộ cơ quan, đơn vị trong sạch, vững mạnh.

Việc giải trình trong nội bộ hệ thống cơ quan hành chính thông qua thiết chế thanh tra, kiểm tra cũng được thực hiện thường xuyên. Thông qua hoạt động thanh tra trách nhiệm, các cơ quan, tổ chức, đơn vị trong bộ máy các cơ quan hành chính nhà nước thực thi trách nhiệm giải trình với cơ quan thanh tra. Năm 2018, qua kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về công khai, minh bạch tại 3.739 cơ quan, tổ chức, đơn vị, đã phát hiện 39 đơn vị có vi phạm. Số người đã kê khai tài sản, thu nhập 1.113.422 người; Số bản kê khai đã công khai là 1.111.818 bản; có 78 người được xác minh tài sản, thu nhập; qua việc xác minh tài sản, thu nhập của cơ quan có thẩm quyền, phát hiện và xử lý 05 trường hợp vi phạm về kê khai tài sản, thu nhập. Năm 2019, qua kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về công khai, minh bạch tại 3.797 cơ quan, tổ chức, đơn vị, đã phát hiện 106 đơn vị có vi phạm. Số người đã kê khai tài sản, thu nhập 1.081.235 người; Số bản kê khai đã công khai là 1.075.310 bản; có 46 người được xác minh tài sản, thu nhập; qua việc xác minh, phát hiện 10 trường hợp vi phạm và đã xử lý kỷ luật 08 trường hợp, đang xem xét xử lý kỷ luật 02 trường hợp.

Thứ hai: Trong giải quyết công việc của công dân, các thủ tục hành chính đã được niêm yết công khai tại nhiều trụ sở cơ quan Nhà nước. Theo đánh giá chung, các tỉnh, thành phố đều có hệ thống website để đăng tải thông tin, quy trình thủ tục về các lĩnh vực hoạt động liên quan trực tiếp đến người dân và doanh nghiệp. Theo Báo cáo tổng hợp tình hình thực hiện công tác kiểm soát thủ tục hành chính và thực thi giai đoạn 3 của Đề án 30, các bộ, ngành, địa phương đã xây dựng Cơ sở dữ liệu quốc gia về thủ tục hành chính. Theo đó, tất cả các thủ tục hành chính, quy trình nghiệp vụ được cập nhật trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về thủ tục hành chính, những thủ tục hành chính được sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc hủy bỏ cũng được công bố trên hệ thống cơ sở dữ liệu này. Việc công bố công khai các thủ tục hành chính, quy trình nghiệp vụ nêu trên theo Đề án 30 của Chính phủ là một bước đột phá trong việc tạo điều kiện cho người dân, doanh nghiệp – những đối tượng chịu tác động của các quy định về thủ tục hành chính có điều kiện tiếp cận thông tin về hoạt động của các cơ quan nhà nước, góp phần từng bước giảm thiểu những khó khăn, vướng mắc của người dân, doanh nghiệp trong việc tiếp cận và sử dụng dịch vụ công, hạn chế tham nhũng, tiêu cực xảy ra. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, việc công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình vẫn còn có một số hạn chế ảnh hưởng đến công tác phòng, chống tham nhũng. Cụ thể như sau:

Một là: Trong nội bộ cơ quan, tổ chức, đơn vị, công tác tổ chức cán bộ vẫn được coi là "mật”, hạn chế công khai. Hầu hết các Bộ, ngành, địa phương chưa xây dựng báo cáo công khai về công tác tổ chức cán bộ để công bố tại Hội nghị công chức, viên chức hàng năm, kế hoạch tuyển dụng, bổ nhiệm cán bộ, công chức ở nhiều cơ quan chưa được công khai để công chức biết, tham gia ý kiến; hiện tượng lợi ích nhóm, chạy chức, chạy quyền vẫn xảy ra. Việc giải trình của cơ quan, tổ chức, đơn vị là đối tượng thanh tra trong hoạt động thanh tra còn hạn chế. Một số thông tin bất lợi cho đối tượng thanh tra vẫn bị bưng bít, không cung cấp đầy đủ, giải thích sai lệch theo hướng có lợi cho đối tượng thanh tra. Cơ quan thanh tra còn thiếu các căn cứ cụ thể để có thể quy kết trách nhiệm cho cá nhân hoặc tập thể trong quá trình thanh tra trách nhiệm. Chính vì vậy, hiệu quả việc thực hiện trách nhiệm giải trình của cơ quan hành chính thông qua thiết chế thanh tra trách nhiệm chưa cao.

Hai là: Quá trình ban hành các quyết định hành chính và thực hiện hành vi hành chính tại một số cơ quan, đơn vị còn thiếu công khai, minh bạch, điều này cũng được hiểu là thiếu trách nhiệm giải trình. Trên thực tế, đã có một số vụ việc do thiếu tính công khai, minh bạch trong việc ban hành các quyết định hành chính hoặc thực hiện hành vi hành chính đã dẫn đến hậu quả nghiêm trọng do không có sự đồng thuận của người phải thi hành quyết định hành chính, hành vi hành chính. Vụ việc Đoàn Văn Vươn chống người thi hành công vụ trong vụ cưỡng chế thu hồi đất tại Tiên Lãng, Hải Phòng là một ví dụ. Qua vụ việc này, Thủ tướng Chính phủ cũng đã có chỉ đạo giải quyết và kiểm điểm trách nhiệm của các bên liên quan. Nhìn từ phương diện thực hiện trách nhiệm giải trình theo yêu cầu đối tượng quản lý, các bên trong vụ việc đã không thực hiện triệt để các quy định về thực hiện trách nhiệm giải trình, vì vậy, xảy ra những tranh chấp căng thẳng, gây ảnh hưởng đến trật tự xã hội ở địa phương và dư luận đối với việc thực hiện các dự án...

Ba là: Việc thực hiện trách nhiệm giải trình của cơ quan hành pháp như việc chủ động công khai thủ tục hành chính, phí và lệ phí trong lĩnh vực quản lý Nhà nước ở nhiều nơi còn hình thức, một số cơ quan có thực hiện nghĩa vụ công khai nhưng không thực hiện đúng như đã công khai, dẫn đến tình trạng chậm trễ trong giải quyết công việc của người dân vẫn phổ biến. 

Bốn là: Việc thực hiện trách nhiệm giải trình qua việc tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị của cá nhân, tổ chức chưa được các cơ quan thực hiện tốt. Mức độ tương tác giữa chính quyền với người dân, sự chủ động của cơ quan hành chính trong việc giải quyết các bức xúc, khúc mắc của người dân chưa cao, các phản ánh, kiến nghị của người dân chưa được giải thích, giải quyết thỏa đáng dẫn tới phát sinh nhiều vụ việc khiếu nại, tố cáo phức tạp, kéo dài, đông người. Hoạt động của hai thiết chế dân chủ là Ban Thanh tra nhân dân và Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng kém hiệu quả, chưa đại diện được cho tiếng nói của người dân, chưa đủ sức mạnh để yêu cầu cơ quan hành chính nhà nước thực hiện nghiêm túc trách nhiệm cung cấp, giải thích thông tin một cách thỏa đáng cho người dân và chịu trách nhiệm về những quyết định, hành vi của mình. Theo kết quả nghiên cứu về chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh ở Việt Nam – PAPI do Trung tâm nghiên cứu và phát triển cộng đồng, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) phối hợp thực hiện đã chỉ ra rằng tương tác giữa chính quyền và người dân còn hạn chế và không thường xuyên, chỉ có 17% số người được hỏi cho biết họ có liên hệ với trưởng thôn/tổ trưởng tổ dân phố và 12% liên hệ với cán bộ chính quyền xã/phường khi họ có bức xúc, khúc mắc cần giải quyết.

Những tồn tại, hạn chế trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Trước hết, ý thức của cán bộ, công chức về việc công khai, minh bạch, thực hiện trách nhiệm giải trình còn lệch lạc. Cán bộ, công chức còn “e ngại” việc thực hiện trách nhiệm giải trình vì sợ bị giám sát, sợ bị phát hiện những sai sót, những tiêu cực trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, công vụ của mình, sợ bị mất lợi ích khi thông tin được giải trình công khai; Người dân không hào hứng với việc gửi kiến nghị, phản ánh, yêu cầu giải trình bởi tâm lý “e ngại” chính quyền, bởi kết quả nhận được sau khi các phản ánh, kiến nghị gửi đi không thỏa đáng, không đáp ứng kỳ vọng, người dân mất tin tưởng vào kết quả nhận được; Thiếu các cơ chế, chế tài đảm bảo thực hiện trách nhiệm giải trình như sự phân công rõ ràng về nhiệm vụ giữa các cơ quan, các cán bộ công chức dẫn tới việc khó quy kết trách nhiệm, đùn đẩy, né tránh trách nhiệm; thiếu các quy định pháp luật về chế tài xử lý.Bốn là, công tác tuyên truyền các quy định về trách nhiệm giải trình đến người dân chưa tốt nên người dân chưa biết đến hoặc chưa hiểu rõ về quyền yêu cầu giải trình của mình để thực hiện, một số thủ tục yêu cầu giải trình đưa ra còn rườm rà khiến người dân “ngại” yêu cầu, cán bộ, công chức “ngại” áp dụng như quy định phải lập biên bản, ký hoặc điểm chỉ đối với những yêu cầu giải trình đơn giản, có thể giải trình ngay và trực tiếp với công dân.

Đề xuất các giải pháp, kiến nghị

Thứ nhất: Nâng cao nhận thức về công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình và vai trò của việc thực hiện công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình trong thực thi công vụ nhằm phòng ngừa tham nhũng. Các cơ quan nhà nước và cán bộ, công chức phải nhận thức được rằng việc thực hiện công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong thực thi công vụ phải trở thành nhiệm vụ thường trực của cơ quan nhà nước, của cán bộ, công chức nhà nước. Việc chủ động giải trình, chủ động công khai, minh bạch thông tin trong hoạt động, trong giải quyết công việc cho người dân, chủ động giải trình khi xảy ra các sự việc gây dư luận trong xã hội sẽ tạo điều kiện cho người dân được tiếp cận với các thông tin cần thiết, nâng cao hiệu quả, tính minh bạch của nền hành chính. Việc thực hiện tốt trách nhiệm giải trình chủ động sẽ làm giảm đáng kể các kiến nghị, phản ánh, khiếu nại, tố cáo và yêu cầu giải trình từ phía người dân. Trách nhiệm giải trình chủ động sẽ tạo ra mối quan hệ tương tác mạnh mẽ giữa chính quyền và công dân, thúc đẩy dân chủ trong hoạt động của cơ quan nhà nước và trong đời sống xã hội, góp phần phòng ngừa tham nhũng.

Thứ hai: Hoàn thiện các quy định về công khai, minh bạch hoạt động của cơ quan hành chính. Để thực hiện tốt trách nhiệm giải trình chủ động cần hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho việc chủ động công khai, minh bạch hoạt động của cơ quan nhà nước, nhất là công khai, minh  bạch các văn bản lập quy, minh bạch quá trình ban hành các quyết định hành chính, công khai thủ tục hành chính, quá trình và kết quả giải quyết thủ tục hành chính cho người dân, tạo ra các cơ chế giải quyết công việc cho người dân nhanh chóng, hiện đại, các kênh tương tác để cơ quan nhà nước cung cấp, giải thích thông tin một cách nhanh chóng, kịp thời đến người dân. Yêu cầu này cũng là nhiệm vụ đầu tiên đã được thể hiện trong Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020 “Minh bạch hóa quá trình soạn thảo, trình, ban hành chính sách, pháp luật; quá trình chuẩn bị, trình, ban hành quyết định, văn bản hành chính gắn liền với việc cải cách thủ tục hành chính”.

Sửa đổi, bổ sung quy định các quy định về công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị: Các quy định về hình thức công khai cần hoàn thiện theo hướng thực hiện đồng thời một số hình thức công khai, để tạo điều kiện tốt nhất cho người dân tiếp cận được những thông tin về hoạt động của các cơ quan nhà nước. Ngoài ra trong các trường hợp quy định công khai bằng hình thức niêm yết, thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng, trên trang thông tin điện tử cũng cần quy định cụ thể về thời, cách thức đăng tải; thống nhất trong việc quy định các nội dung công khai trong Luật Phòng, chống tham nhũng với các quy định về công khai trong các văn bản luật chuyên ngành; bổ sung thêm quy định về công khai trong quá trình ban hành quyết định hành chính và thực hiện hành vi hành chính; quy định việc giám sát thực hiện công khai, minh bạch trong hệ thống các cơ quan nhà nước và trách nhiệm giám sát của Mặt trận Tổ quốc, các cơ quan dân cử và các đoàn thể nhân dân. Điều này nhằm tăng sức ép trong việc thực hiện công khai, minh bạch của các cơ quan nhà nước, tránh việc công khai hình thức, đối phó cho qua. Bên cạnh đó cũng cần nghiên cứu, bổ sung các quy định về các chế tài xử lý khi thực hiện không đúng việc công khai, minh bạch.

Nghiên cứu sửa đổi, hoàn thiện và công khai quy định về danh mục bí mật nhà nước: Vấn đề cấp thiết hiện nay là xác định rõ nguyên tắc xác định danh mục bí mật của các bộ, ngành, địa phương; trên cơ sở đó hạn chế tình trạng phổ biến hiện nay là các bộ, ngành, địa phương thường lấy lý do thuộc danh mục bí mật nhà nước để từ chối cung cấp thông tin khi có yêu cầu. Việc công khai danh mục bí mật Nhà nước sẽ tạo điều kiện để người dân thực hiện tốt hơn vai trò giám sát việc thực hiện công khai của các cơ quan nhà nước. Đồng thời, đó là cơ sở pháp lý để ngăn chặn tình trạng lạm dụng hay lách quy định để từ chối quyền chính đáng trong thực hiện quyền giám sát của công dân.

Thứ ba: Sửa đổi, bổ sung, ban hành đồng bộ các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Phòng, chống tham nhũng về trách nhiệm giải trình: Mặc dù Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 và Nghị định 59/2019/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và hướng dẫn thi hành Luật phòng, chống tham nhũng đã có những quy định khá chi tiết về trách nhiệm giải trình; tuy nhiên,Nghị định 90/2013/NĐ-CP vẫn là văn bản đầu tiên quy định chính thức về trách nhiệm giải trình, đưa ra giải thích về thế nào là giải trình, về chủ thể, đối tượng, trình tự, thủ tục thực hiện trách nhiệm giải trình. Tuy nhiên, các quy định của Nghị định đã làm hẹp đi phạm vi của việc thực hiện trách nhiệm giải trình. Chính vì vậy, cần hoàn thiện các quy định này theo hướng sau: Đưa ra quan niệm đầy đủ về trách nhiệm giải trình; mở rộng phạm vi điều chỉnh của Nghị định số 90 đối với tất cả các cơ quan nhà nước, thậm chí đối với tất cả các cơ quan hưởng lương từ ngân sách nhà nước.Hơn nữa, trách nhiệm giải trình không chỉ là trách nhiệm pháp lý mà còn là trách nhiệm chính trị, do đó các chế tài cũng cần nghiêm khắc hơn, tránh chỉ là các chế tài hành chính thông thường. Các chế tài đưa ra có thể liên quan đến thi đua khen thưởng, bổ nhiệm…. Cần coi việc thực hiện trách nhiệm giải trình là một tiêu chí để đánh giá cán bộ, công chức, bổ sung các quy định nhằm tăng tính chịu trách nhiệm về hậu quả xảy ra trong thực thi công vụ của cán bộ, công chức như quy định về việc từ chức, quy định về lấy phiếu tín nhiệm,… và các trình tự, thủ tục cụ thể để thực hiện các chế tài này.

Thứ tư: Tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về việc thực hiện trách nhiệm giải trình. Để người dân cũng như cán bộ, công chức hiểu rõ và thực hiện tốt các quy định của pháp luật liên quan tới việc thực hiện công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình cần phải tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật dưới nhiều hình thức khác nhau. Các cơ quan, tổ chức, đơn vị cần quán triệt việc thực hiện các văn bản liên quan tới trách nhiệm giải trình tới các cán bộ, công chức. Người đứng đầu thường xuyên theo dõi, kiểm tra việc thực hiện công khai, minh bạch, giải trình trong quá trình giải quyết công việc cho tổ chức, công dân của cán bộ, công chức, kịp thời phát hiện những điểm bất hợp lý trong quy định của pháp luật để kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền có biện pháp điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung kịp thời. Ngoài ra, cần nghiên cứu các cơ chế, biện pháp thích hợp để quy định trong quy chế hoạt động của cơ quan, đơn vị những biện pháp nhằm tăng cường trách nhiệm giải trình, công khai, minh bạch, tương tác giữa chính quyền với tổ chức, công dân hơn nhằm hạn chế nguy cơ phát sinh tiêu cực, tham nhũng.

TS. Tạ Thu Thủy
Viện Chiến lược và Khoa học thanh tra, Thanh tra Chính phủ

Theo Tạp chí Tri thức Xanh - Số 27 - 20

Bình luận: 0