TẠP CHÍ TRI THỨC XANH - CƠ QUAN LÝ LUẬN CỦA VIỆN KHOA HỌC MÔI TRƯỜNG VÀ XÃ HỘI

E-mail:info@ttxonline.vn -  Hotline: 0948565689
thứ tư, 24/04/2024

Thu nhập của người lao động tại các khu công nghiệp ở Việt Nam hiện nay - những vấn đề đặt ra

00:08 30/10/2020
Logo header Con người là trung tâm của mọi sự phát triển, vừa là động lực để phát triển kinh tế - xã hội đồng thời sự phát triển đó cũng thúc đẩy nâng cao chất lượng đời sống cả về vật chất, tinh thần của người lao động, tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện.

Ảnh minh họa (Nguồn: Internet)

Một số vấn đề lý luận chung về thu nhập
Xã hội ngày càng phát triển thì lao động trở thành một nhu cầu thiết yếu để tồn tại, thông qua lao động người lao động được trả lương, đây là nguồn thu nhập để họ tái sản xuất và tái sản xuất sức lao động. Có thể nói, tiền lương chính là nguồn thu nhập chính để đảm bảo đời sống cho người lao động. Ngoài tiền lương là nguồn thu nhập chính của người lao động thì trong tổng thu nhập của người lao động còn có các khoản thu nhập khác như tiền thưởng, tiền lãi cổ phần do lao động đóng góp, tiền phụ cấp các loại, bảo hiểm xã hội, tiền trợ cấp xã hội, an sinh xã hội, phúc lợi xã hội,...

Trong nghiên cứu về vai trò của lương và thu nhập như là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững của Viện Nghiên cứu quản lý Kinh tế trung ương, thu nhập có thể hiểu là cơ hội tiêu dùng và tiết kiệm mà một đối tượng có được trong một khung thời gian cụ thể. Với đối tượng là hộ gia đình và cá nhân thì “thu nhập là tổng của lương, tiền công, lợi nhuận, tiền lãi, địa tô và những lợi tức khác mà họ có được trong một khoảng thời gian nhất định”. Theo Samuelson và Nordhaus (2001), “Thu nhập là luồng tiền lương, trả lãi, cổ tức và các nguồn thu khác mà một cá nhân hay một quốc gia nhận được trong một khoảng thời gian nhất định”. Theo Tổng Cục Thống kê (2014), thu nhập của người lao động được định nghĩa như sau: “Thu nhập từ việc làm là khoản tiền công dưới dạng tiền mặt hoặc hiện vật trả cho người làm công ăn lương đối với thời gian hoặc công việc đã làm, cùng với khoản tiền trả cho thời gian không làm việc như nghỉ phép hoặc nghỉ hè hàng năm, nghỉ lễ hoặc các thời gian nghỉ khác được trả lương, bao gồm cả những khoản tiền công khác nhận thường xuyên có tính chất như lương trước khi người chủ khấu trừ (các khoản mà người chủ đã đóng cho người làm công ăn lương như: thuế, đóng bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, tiền đóng cho chế độ hưu trí, phí bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội trả thay lương (trả cho người lao động trong thời gian nghỉ việc vì ốm đau, thai sản, tai nạn lao động), phí đoàn thể và các khoản nghĩa vụ khác của người làm công ăn lương). Không tính vào thu nhập từ việc làm các khoản sau: tiền bảo hiểm xã hội và tiền chế độ hưu trí mà người chủ đã đóng cho người làm công ăn lương và những phúc lợi mà người làm công ăn lương đã nhận được từ các khoản này, chi trả cho kết thúc hợp đồng, các khoản phúc lợi không thường xuyên (như tiền thưởng cuối năm, tiền biếu,...)”. Như vậy, thu nhập của người lao động theo cách hiểu trong nghiên cứu này có nghĩa là tất cả các khoản tiền lương mà doanh nghiệp, người sử dụng lao động trả cho người lao động căn cứ theo số lượng và chất lượng công việc họ đã thực hiện, bên cạnh lương còn có các khoản tiền phụ cấp, các khoản tiền thưởng,... được tính chung vào thu nhập của người lao động. 

Theo sách trắng doanh nghiệp Việt Nam năm 2019, “Thu nhập của người lao động là tổng các khoản người lao động nhận được do tham gia vào quá trình sản xuất của doanh nghiệp. Thu nhập của người lao động bao gồm: Tiền lương, tiền thưởng và các khoản phụ cấp, thu nhập khác có tính chất như lương gồm: tiền lương, tiền công, các khoản phụ cấp và tiền thưởng trong lương; các khoản phụ cấp và thu nhập khác của người lao động được hạch toán vào chi phí và giá thành sản phẩm; Bảo hiểm xã hội trả thay lương: Khoản cơ quan bảo hiểm xã hội phải chi trả cho người lao động của doanh nghiệp trong thời gian nghỉ ốm, thai sản, tai nạn lao động... theo quy định hiện hành; Các khoản thu nhập khác không tính vào chi phí sản xuất kinh doanh: Các khoản chi trực tiếp cho người lao động nhưng không hạch toán vào chi phí sản xuất có nguồn chi lấy từ quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi, lợi nhuận của chủ doanh nghiệp hoặc từ các nguồn khác”. Qua nghiên cứu có thể thấy, thu nhập của một người lao động là tất cả những khoản thu mà người lao động đó nhận được từ việc cung ứng sức lao động của mình, bao gồm cả tiền lương (tiền công), tiền thưởng, tiền ăn ca, tiền trợ cấp, phụ cấp các loại, bảo hiểm xã hội, an sinh xã hội, phúc lợi xã hội,... Tiền lương và thu nhập là hai khái niệm khác nhau, mặc dù có vẻ tương đương nhưng đây lại là hai khái niệm rất khác nhau về nội dung và hình thức và bổ sung gắn kết cho nhau. Ta có thể biểu diễn về thu nhập của người lao động qua công thức

Thu nhập = Tiền lương + M
(trong đó, M được hiểu là những loại hình thu nhập khác ngoài lương) 

Như vậy, thu nhập bao gồm cả tiền lương và các khoản thu khác ngoài lương, có thể bao gồm phụ cấp từ lao động nếu có, ngoài ra còn có các khoản thu khác từ lao động (như tiền thưởng cuối năm, thưởng đột xuất, trợ cấp khó khăn và thu khác không từ lao động (trúng số, quà tặng,...). Giữa thu nhập và tiền lương có mối quan hệ qua lại với nhau, trong thu nhập có một phần của tiền lương và tiền lương là một phần của thu nhập. Ngoài tiền lương ra thì trong tổng thu nhập của người lao động còn có các khoản tiền khác. Các khoản thu nhập này giữ vai trò quan trọng trong việc duy trì và cải thiện cuộc sống người lao động một cách bền vững.

Các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của người lao động
Tiền lương là nguồn thu nhập chủ yếu của người lao động. Ngoài ra người lao động còn được hưởng một số nguồn thu nhập khác như: Trợ cấp bảo hiểm xã hội, tiền thưởng, tiền ăn ca,... Chi phí tiền lương là một bộ phận chi phí cấu thành nên giá thành sản phẩm, dịch vụ do doanh nghiệp sản xuất ra. Tổ chức sử dụng lao động hợp lý, hạch toán tốt lao động, trên cơ sở đó tính đúng thù lao lao động, thanh toán kịp thời tiền lương và các khoản liên quan từ đó kích thích người lao động quan tâm đến thời gian, kết quả và chất lượng lao động, chấp hành tốt kỷ luật lao động, nâng cao năng suất lao động, góp phần tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp đồng thời tạo điều kiện nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người lao động. Có rất nhiều nhóm yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của người lao động như sau:

Thứ nhất, nhóm nhân tố thuộc thị trường lao động: Cung - cầu lao động ảnh hưởng trực tiếp đến tiền lương - thu nhập của người lao động
Khi cung về lao động lớn hơn cầu về lao động thì tiền lương có xu hướng giảm, khi cung về lao động nhỏ hơn cầu về lao động thì tiền lương có xu hướng tăng, còn khi cung về lao động bằng với cầu lao động thì thị trường lao động đạt tới sự cân bằng. Tiền lương lúc này là tiền lương cân bằng, mức tiền lương này bị phá vỡ khi các nhân tố ảnh hưởng tới cung cầu về lao động thay đổi như (năng suất biên của lao động, giá cả của hàng hoá, dịch vụ…).

Khi chi phí sinh hoạt thay đổi, do giá cả hàng hoá, dịch vụ thay đổi sẽ kéo theo tiền lương thực tế thay đổi. Cụ thể khi chi phí sinh hoạt tăng thì tiền lương thực tế sẽ giảm. Như vậy buộc các đơn vị, các doanh nghiệp phải tăng tiền lương danh nghĩa cho công nhân để đảm bảo ổn định cuộc sống cho người lao động, đảm bảo tiền lương thực tế không bị giảm.

Trên thị trường luôn tồn tại sự chênh lệch tiền lương giữa các khu vực tư nhân, Nhà nước, liên doanh … chênh lệch giữa các ngành, giữa các công việc có mức độ hấp dẫn khác nhau, yêu cầu về trình độ lao động cũng khác nhau. Do vậy, Nhà nước cần có những biện pháp điều tiết tiền lương cho hợp lý.

Thứ hai, nhóm nhân tố thuộc môi trường doanh nghiệp
Các chính sách của doanh nghiệp: các chính sách lương, phụ cấp, giá thành…được áp dụng triệt để phù hợp sẽ thúc đẩy lao động nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, trực tiếp tăng thu nhập cho bản thân.

Khả năng tài chính của doanh nghiệp ảnh hưởng mạnh tới tiền lương. Với doanh nghiệp có khối lượng vốn lớn thì khả năng chi trả tiền lương cho người lao động sẽ thuận tiện dễ dàng. Còn ngược lại nếu khả năng tài chính không vững thì tiền lương của người lao động sẽ rất bấp bênh.

Cơ cấu tổ chức hợp lý hay bất hợp lý cũng ảnh hưởng ít nhiều đến tiền lương. Việc quản lý được thực hiện như thế nào, sắp xếp đội ngũ lao động ra sao để giám sát và đề ra những biện pháp kích thích sự sáng tạo trong sản xuất của người lao động để tăng hiệu quả, năng suất lao động góp phần tăng tiền lương.

Thứ ba, nhóm nhân tố thuộc bản thân người lao động
Trình độ lao động: Với lao động có trình độ cao thì sẽ có được thu nhập cao hơn so với lao động có trình độ thấp hơn bởi để đạt được trình độ đó người lao động phải bỏ ra một khoản chi phí tương đối cho việc đào tạo đó. Có thể đào tạo dài hạn ở trường lớp cũng có thể đào tạo tại doanh nghiệp. Để làm được những công việc đòi hỏi phải có hàm lượng kiến thức, trình độ cao mới thực hiện được, đem lại hiệu quả kinh tế cao cho doanh nghiệp thì việc hưởng lương cao là tất yếu.

Thâm niên công tác và kinh nghiệm làm việc thường đi đôi với nhau. Một người qua nhiều năm công tác sẽ đúc rút được nhiều kinh nghiệm, hạn chế được những rủi ro có thể xảy ra trong công việc, nâng cao bản lĩnh trách nhiệm của mình trước công việc đạt năng suất chất lượng cao vì thế mà thu nhập của họ sẽ ngày càng tăng lên.
Mức độ hoàn thành công việc nhanh hay chậm, đảm bảo chất lượng hay không đều ảnh hưởng đến tiền lương, thu nhập của người lao động.

Thứ tư, nhóm nhân tố thuộc giá trị công việc
Mức hấp dẫn của công việc: công việc có sức hấp dẫn cao thu hút được nhiều lao động, khi đó doanh nghiệp sẽ không bị sức ép tăng lương, ngược lại với công việc kém hấp dẫn để thu hút được lao động doanh nghiệp phải có biện pháp đặt mức lương cao hơn.

Mức độ phức tạp của công việc: với độ phức tạp của công việc càng cao thì định mức tiền lương cho công việc đó càng cao. Độ phức tạp của công việc có thể là những khó khăn về trình độ kỹ thuật, khó khăn về điều kiện làm việc, mức độ nguy hiểm cho người thực hiện do đó mà tiền lương sẽ cao hơn so với công việc giản đơn.

Điều kiện thực hiện công việc: tức là để thực hiện công việc cần xác định phần việc phải làm, tiêu chuẩn cụ thể để thực hiện công việc, cách thức làm việc với máy móc, môi trường thực hiện khó khăn hay dễ dàng đều quyết định đến tiền lương.
Yêu cầu của công việc đối với người thực hiện là cần thiết, rất cần thiết hay chỉ là mong muốn mà doanh nghiệp có quy định mức lương phù hợp.

Thực trạng thu nhập của người lao động tại các khu công nghiệp
Các khu công nghiệp là mô hình kinh tế tổng hợp, năng động, có vai trò hết sức quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế -xã hội của mỗi quốc gia. Việc xây dựng và phát triển các khu công nghiệp gắn với hình thành và phát triển các khu đô thị - dịch vụ đã tác động tích cực trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa, thúc đẩy quá trình tiếp cận kỹ thuật công nghệ và quản lý tiên tiến, bảo vệ môi trường, phát triển nguồn nhân lực, đồng thời góp phần hỗ trợ tích cực trong việc xóa đói, giảm nghèo và an sinh xã hội. Phát triển khu công nghiệp cũng góp phần quan trọng trong việc phân công lại lực lượng lao động trong xã hội, đồng thời thúc đẩy sự hình thành và phát triển thị trường lao động có trình độ và hàm lượng chất xám cao, tranh thủ được nguồn vốn đầu tư nước ngoài để phát triển.

Theo Báo cáo của Vụ Quản lý khu kinh tế, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến hết năm 2018, cả nước có 326 khu công nghiệp được thành lập với tổng diện tích tự nhiên đạt xấp xỉ 93.000 ha, trong đó diện tích đất công nghiệp đạt gần 64.000 ha, chiếm khoảng 68% tổng diện tích tự nhiên. Trong 326 khu công nghiệp được thành lập, có 250 khu công nghiệp đã đi vào hoạt động với tổng diện tích đất tự nhiên gần 68.000 ha và 76 khu công nghiệp đang trong giai đoạn đền bù giải phóng mặt bằng và xây dựng cơ bản với tổng diện tích đất tự nhiên 25 nghìn ha. Sự hình thành và phát triển các khu công nghiệp đã góp phần hiện đại hóa hệ thống cơ sở vật chất hạ tầng, đơn giản hóa thủ tục hành chính, tạo ra một môi trường đầu tư thông thoáng, phù hợp hơn với thông lệ quốc tế, đồng thời góp phần củng cố an ninh, quốc phòng. Các khu công nghiệp đã trở thành điểm đến của nhiều dự án quan trọng và có quy mô lớn, là lựa chọn hàng đầu của các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Sự hình thành và phát triển của các khu công nghiệp đã tạo ra sự đa dạng về cơ hội việc làm, thu hút được một lực lượng lao động lớn, góp phần giải quyết việc làm, cải thiện cuộc sống, nâng cao thu nhập cho người lao động.

Kết quả khảo sát của Viện Công nhân và Công đoàn về tiền lương cơ bản của người lao động trong các doanh nghiệp năm 2017 cho thấy, tiền lương cơ bản trung bình (làm việc đủ giờ theo quy định) của người lao động là 4.480.000 đồng/tháng; thu nhập trung bình (không kể ăn ca) là 5.453.000 đồng/tháng. Tiền lương hàng tháng của người lao động làm việc tại các khu công nghiệp thường chiếm khoảng từ 70-74% trong tổng thu nhập (tùy từng nhóm lao động), số còn lại 26-30% là các khoản thu nhập khác ngoài tiền lương như: tiền hỗ trợ nhà ở, tiền ăn ca, tiền đi lại, tiền chuyên cần, tiền thưởng tháng, tiền hỗ trợ nuôi con dưới 36 tháng tuổi... Kết quả khảo sát cũng cho thấy mức thu nhập của công nhân lao động cũng có sự chênh lệch giữa các vùng kinh tế, giữa các doanh nghiệp, các loại hình doanh nghiệp, thậm chí trong một doanh nghiệp.

Theo kết quả khảo sát về tình hình lao động, tiền lương, thu nhập, chi tiêu, đời sống người lao động trong các doanh nghiệp năm 2018 của Viện Công nhân và Công đoàn cho thấy, thu nhập của người lao động hiện đạt bình quân trên 5,5 triệu đồng/tháng.  Kết quả cho thấy, với trên 3.000 người lao động tại 150 doanh nghiệp đủ các loại hình ở 25 tỉnh, thành phố thì tiền lương cơ bản hàng tháng của người lao động (làm đủ giờ công, ngày công) nhận được trung bình là 4,67 triệu đồng. Ngoài tiền lương cơ bản, người lao động còn nhận được tiền làm thêm giờ, tiền chuyên cần và các khoản phụ cấp, trợ cấp, hỗ trợ khác từ doanh nghiệp với nhiều tên gọi khác nhau để tăng thu nhập, giữ chân người lao động, nhưng các khoản này thường không tính vào mức đóng bảo hiểm (trừ phụ cấp trách nhiệm, chức vụ). Như vậy, tổng thu nhập trung bình của người lao động (không kể tiền ăn ca) do đó đạt gần 5,53 triệu đồng/tháng, trong đó tiền lương cơ bản chiếm 84,4%.

Qua số liệu khảo sát của Viện Công nhân và Công đoàn có thể thấy mức thu nhập trung bình của người lao động trong các doanh nghiệp đã có sự cải thiện, tuy nhiên, mức thu nhập trung bình của người lao động tại các doanh nghiệp vẫn còn thấp, đa số người lao động vẫn còn gặp nhiều khó khăn, phải chi tiêu tằn tiện, kham khổ. Ngoài tiền lương là mức thu nhập chính thì người lao động vẫn phải nai lưng ra để làm thêm giờ. Hầu hết người lao động phải làm việc vất vả, cường độ cao, thời gian làm việc kéo dài.Với mức thu nhập từ tiền lương, tiền làm thêm giờ, người lao động còn có một số khoản thu khác như tiền chuyên cần, các khoản phụ cấp, trợ cấp, hỗ trợ khác từ doanh nghiệp. Tuy nhiên, thu nhập của người lao động hiện nay vẫn đang ở mức thấp so với mức sống, mức chi tiêu cho cuộc sống hàng ngày. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến nguồn thu nhập của người lao động vẫn đang ở mức thấp như: 

Thứ nhất: Trình độ tay nghề của người lao động hiện nay vẫn còn thấp do nhận thức của đa số người lao động về tầm quan trọng của học nghề, nâng cao tay nghề lao động hiện nay vẫn chưa cao dẫn đến việc người lao động tại các khu công nghiệp chưa có điều kiện và chưa tha thiết với vấn đề đào tạo nghề. Thực trạng thiếu, yếu về chuyên môn, tay nghề của người lao động tại các khu công nghiệp không chỉ ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp mà còn tác động trực tiếp vào mức sống, mức thu nhập của bản thân người lao động. Tay nghề yếu có hệ quả là không ổn định về công việc, nơi làm việc, dễ bị thiệt thòi về quyền lợi và đặc biệt sẽ không có cơ hội vươn lên thoát khỏi khó khăn, mức sống thấp,...

Thứ hai: Nhận thức của doanh nghiệp về vấn đề tuyển dụng, đào tạo nghề còn thấp. Thực chất nguồn lực lao động tại các khu công nghiệp đến làm việc chủ yếu là lao động giản đơn, đến từ các vùng nông thôn, nguồn lao động chủ yếu là thanh niên, nông dân chưa qua đào tạo, tay nghề thấp thay vào đó, các doanh nghiệp hiện nay vẫn chưa thực sự chú trọng vào vấn đề đào tạo nghề cho người lao động. Việc thiếu tích cực trong tìm nguồn lao động có chuyên môn tại hệ thống các trường nghề,  thiếu năng động trong liên kết đào tạo nghề khi sử dụng lao động,... cũng là điểm yếu chung của hầu hết các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong vấn đề tuyển dụng, đào tạo lao động có chất lượng cao.

Thứ ba: Diễn ra thực trạng việc các doanh nghiệp tổ chức làm thêm giờ, tăng ca cho người lao động, đưa ra định mức lao động cao,... tuy nhiên các doanh nghiệp lại không trả lương đúng với sức lao động của người lao động bỏ ra. Ngoài ra còn xuất hiện việc các doanh nghiệp trả lương không công khai, minh bạch, không thực hiện nâng lương định kỳ cho người lao động,... đây cũng là một trong những nguyên nhân cơ bản và phổ biến hiện nay dẫn đến mức thu nhập của người dân còn thấp, thậm chí cũng do nguyên nhân này mà các vấn đề bức xúc, tranh chấp lao động, đình công, ngừng việc tập thể đã xảy ra tại một số doanh nghiệp.

Thứ tư: các vấn đề về thể trạng, sức khỏe, độ bền, tính ổn định về công việc của người lao động chưa cao, việc tuân thủ quy trình lao động không tốt, kỹ năng giải quyết vấn đề kém cũng là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến năng suất lao động thấp, kéo theo nguồn thu nhập của người lao động cũng thấp.

Thứ năm: Hệ thống các chính sách - chế độ tiền lương và thu nhập của người lao động trong các doanh nghiệp hiện nay vẫn còn một số hạn chế, dẫn đến mức thu nhập của người lao động chưa đảm bảo như: Đối với chính sách - chế độ tiền lương: Việc ban hành các văn bản còn chưa kịp thời, thiếu đồng bộ, thiếu Thông tư hướng dẫn chi tiết Bộ Luật Lao động, các Nghị định, các điều kiện thực thi quy định thiếu thực tế dẫn đến việc áp dụng các văn bản chưa triệt để. Văn phong trong các văn bản thiếu cụ thể và chưa rõ ràng; Đối với quy định về mức tiền lương tối thiểu: các quy định về mức lương tối thiểu vùng cho người lao động đã cơ bản tạo ra hành lang pháp lý an toàn bảo vệ người lao động để tránh sức ép về nhiều vấn đề từ phía người sử dụng lao động. Mục tiêu của chính sách tiền lương tối thiểu là nhằm bảo vệ người lao động, bảo đảm cho người lao động tái sản xuất sức lao động. Tuy nhiên, hiện nay mức lương tối thiểu của người lao động vẫn còn thấp. Thêm vào đó, việc quản lý về vấn đề tiền lương cho người lao động hiện nay vẫn chưa thực sự chặt chẽ tại các doanh nghiệp, điều này ảnh hưởng trực tiếp đến mức lương và thu nhập của người lao động khi làm việc tại các doanh nghiệp. Mặt khác, cùng với việc quy định mức tiền lương tối thiểu khá thấp trong khu vực Nhà nước và phạm vi áp dụng hẹp, chính sách tiền lương tối thiểu chưa thực hiện được các mục tiêu đề ra (chống nghèo khổ, lưới an toàn cho những người làm công ăn lương). Mức tiền lương tối thiểu mặc dù đã được điều chỉnh, tuy nhiên mức quy định vẫn còn thấp và chậm được điều chỉnh đã không thiết lập được trật tự trong phân phối và thu nhập, ảnh hưởng rất lớn đến các yếu tố đền bù lao động tính trong mức tiền lương tối thiểu. Bên cạnh đó, quan điểm ngân sách khi tiếp cận vấn đề và sự thiếu đồng bộ của các chính sách có liên quan đã biến tiền lương tối thiểu trở thành yếu tố cản trở sự linh hoạt của các tổ chức kinh tế đối với các biến động về kinh tế; Đối với các quy định về hệ thống thang, bảng lương: thực tế cho thấy, việc thiết kế quá nhiều bậc trong một ngạch lương đã làm giảm hiệu quả của bội số lương, số bậc trong bảng lương không cân đối với số năm công tác theo tuổi đời lao động của một người. Đối với các quy định về thang bảng lương hiện nay hầu như không còn là mối quan tâm của người lao động khi tính đến thu nhập. Thang bảng lương theo quy định của Nhà nước chỉ dùng để tham khảo và tính nộp bảo hiểm xã hội; Về các chế độ phụ cấp lương: Việc hướng dẫn chế độ phụ cấp lương còn thiếu cụ thể và thiếu cơ sở khoa học như: việc quy định mức phụ cấp so với mức lương tối thiểu hoặc so với  %  lương cấp bậc, chức vụ còn mang tính chủ quan, áp đặt và bị chi phối bởi tổng quỹ lương trong ngân sách Nhà nước khi ban hành chế độ. 

Những vấn đề đặt ra nhằm nâng cao thu nhập của người lao động tại các khu công nghiệp

Trong điều kiện thể chế kinh tế thị trường của chúng ta tiếp tục hoàn thiện và phát triển, đặc biệt mức độ hội nhập của Việt Nam so với khu vực và thế giới đang diễn ra mạnh mẽ, đặc biệt là sự hình thành và phát triển của các khu công nghiệp ở Việt Nam hiện nay thì việc hoàn thiện thể chế, chính sách (trong đó có cơ chế, chính sách tiền lương) để phù hợp với kinh tế thị trường và hội nhập khu vực, toàn cầu cần phải đặt ra và thực hiện đồng bộ. Trong quá trình hội nhập, bên cạnh những cơ hội, Việt Nam cũng phải đối mặt với những khó khăn thách thức đang đặt ra đó là năng lực cạnh tranh chưa cao, chất lượng nguồn nhân lực, năng suất lao động còn thấp, vấn đề việc làm, thất nghiệp, tiền lương, thu nhập và đời sống của người lao động còn khó khăn, phức tạp. Vì vậy, trong quá trình hội nhập khu vực và quốc tế thì chính sách tiền lương cần phải tiếp tục hoàn thiện theo thị trường, tức là phải theo quy luật giá trị, quy luật cung cầu dựa trên cơ sở thương lượng, thỏa thuận, Nhà nước tạo hành lang pháp lý để các bên thương lượng thỏa thuận và quy định mức sàn thấp nhất để bảo vệ người lao động. Phải đảm bảo cải cách hệ thống tiền lương theo hướng tích cực, làm cho hệ thống tiền lương trở nên linh hoạt hơn, có mức lương phù hợp với các khối ngành nghề, Nhà nước không can thiệp vào khối sản xuất kinh doanh nhưng có quy định, hướng dẫn cụ thể để khối doanh nghiệp tính thu nhập cho người lao động dựa vào các yếu tố như tốc độ tăng trưởng, năng suất lao động, tình hình lạm phát, kinh tế vĩ mô… 

Để hạn chế những tác động bất lợi, chủ động hội nhập khu vực và thế giới thì bên cạnh vấn đề nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý Nhà nước về lao động, tiền lương và năng suất lao động (như hoàn thiện hệ thống luật pháp phù hợp với thể chế kinh tế thị trường; tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật, thanh tra, kiểm tra đảm bảo thực thi luật pháp), Nhà nước tiếp tục thực hiện hoàn thiện thể chế, tái cơ cấu kinh tế, tái cơ cấu lao động, thực hiện đồng bộ các giải pháp đổi mới công nghệ nâng cao kỹ năng cho người lao động, nâng cao năng suất lao động, minh bạch và kết nối thông tin thị trường lao động, đặc biệt thông tin về tiền lương, năng suất lao động của ngành, doanh nghiệp để hỗ trợ hai bên có thông tin thương lượng, thỏa thuận tiền lương; nâng cao năng lực của các bên trong thương lượng về tiền lương, xây dựng quy chế trả lương gắn với kết quả, hiệu quả của từng ngành, từng doanh nghiệp và cá nhân, tạo động lực cho các bên tham gia hoạt động lao động sản xuất. Phải đảm bảo tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh, nâng cao năng suất lao động đồng thời cũng cần có cơ chế chặt chẽ trong việc đảm bảo hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người dân. 

Bên cạnh những chủ trương, chính sách của Nhà nước về vấn đề tiền lương, thu nhập, quản lý các vấn đề về tiền lương, thu nhập cho người lao động thì việc tiếp tục đổi mới tư duy, thay đổi nhận thức của doanh nghiệp và người lao động về vấn đề đào tạo nghề, nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động cũng là một trong những yếu tố quan trọng nhằm từng bước cải thiện, nâng cao năng suất lao động, góp phần từng bước cải thiện nguồn thu nhập, nâng cao mức sống cho người lao động nói chung và người lao động tại các khu công nghiệp nói riêng.

Nhà báo Lê Thị Nhung, Viện Khoa học Môi trường và Xã hội

Theo Tạp chí Tri thức Xanh - Số 34 - 20

Bình luận: 0