TẠP CHÍ TRI THỨC XANH - CƠ QUAN LÝ LUẬN CỦA VIỆN KHOA HỌC MÔI TRƯỜNG VÀ XÃ HỘI

E-mail:info@ttxonline.vn -  Hotline: 0948565689
thứ năm, 18/04/2024

Thực tiễn về trách nhiệm giải trình trong quản trị Nhà nước ở Việt Nam hiện nay

20:45 02/04/2020
Logo header Khái quát về trách nhiệm giải trình trong quản trị Nhà nước ở Việt Nam Động lực hình thành “trách nhiệm giải trình” trong quản trị Nhà nước ở Việt Nam Ở Việt Nam, thuật ngữ “trách nhiệm giải trình”(accountability) được thảo luận nhiều trong khoảng một thập niên trở lại đây, trong bối cảnh sự công khai, minh bạch hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị sự nghiệp công thiếu cơ chế để quy trách nhiệm khiến cho quản trị nhà nước trở nên kém hiệu quả.

Một cách khái quát, có thể xem sự hình thành và thực thi trách nhiệm giải trình ở Việt Nam thời gian qua như là kết quả đến từ những áp lực hội nhập lẫn động lực cải cách bộ máy Nhà nước ở trong nước. Cụ thể, phần lớn động lực đó đến từ quá trình hội nhập kinh tế sâu rộng của Việt Nam với thế giới, sự thúc đẩy, mở rộng dân chủ và quyền con người (cả chủ động bởi Nhà nước và thụ động thông qua các đối tác thương mại của Việt Nam), việc tăng cường quyền tiếp cận thông tin (đến từ đòi hỏi của người dân và từ sự phát triển của khoa học, công nghệ) và yêu cầu phòng, chống tham nhũng (vừa là áp lực nội tại, vừa là yêu cầu/điều kiện khi giao thương với quốc tế). Dưới đây là phân tích các động lực chính dẫn đến hình thành “trách nhiệm giải trình” và thực thi trên thực tế ở Việt Nam.

Thứ nhất: Động lực từ sự phát triển và hội nhập của nền kinh tế Việt Nam với thế giới

Yêu cầu công khai, minh bạch, nhanh chóng, thuận lợi trong quản lý, trong các cơ chế, chính sách, trong thực hiện các thủ tục hành chính để tạo điều kiện cho thị trường, cho doanh nghiệp, cho người dân kinh doanh và sinh kế ngày càng cao, khiến cho vấn đề trách nhiệm giải trình trong thực thi công vụ càng được đặt ra một cách bức thiết.

Mặt khác, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng của Việt Nam đã tạo một áp lực lớn lên nền công vụ quốc gia. Hiệu quả của nền công vụ ngày càng trở thành một yếu tố sống còn của năng lực cạnh tranh quốc gia, quyết định đến sự phát triển hay tụt hậu của nền kinh tế đất nước. Một nền công vụ minh bạch, hiệu quả gắn với trách nhiệm giải trình sẽ góp phần vào việc thu hút đầu tư nước ngoài, gia tăng đầu tư trong nước và viện trợ, tài trợ cho sự phát triển kinh tế đất nước.

Để tăng cường phát triển kinh tế, Việt Nam đã và đang tiếp tục hoàn thiện thể chế quản lý vĩ mô, chủ động hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, tiếp thu những phương thức quản trị mới của khu vực tư nhân cũng như Nhà nước phù hợp với điều kiện trong nước, vừa góp phần vào phát triển kinh tế, vừa cải cách phương thức quản trị hiện tại theo các chuẩn mực quản trị quốc tế, theo hướng minh bạch hóa gắn với trách nhiệm giải trình.

Thứ hai: Động lực từ sự thúc đẩy mở rộng dân chủ và thực thi quyền con người

Kể từ Đổi mới (1986) đến nay, Nhà nước Việt Nam, với nhiều cố gắng và nỗ lực, đã liên tục mở rộng dân chủ và thúc đẩy việc bảo đảm các quyền con người, trong đó có các quyền được khiếu nại, tố cáo của công dân và một số quyền khác mà gắn với nghĩa vụ của Nhà nước phải thực hiện trách nhiệm giải trình. Đây là một trong những kết quả của quá trình mở rộng dân chủ và thực thi  quyền con người theo các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã đưa ra kể từ đầu thập kỷ 1980.

Tuy nhiên, để quá trình mở rộng dân chủ tiếp tục tác động tích cực lên trách nhiệm giải trình của cơ quan công quyền, theo một số nghiên cứu, Việt Nam cần tiếp tục cải cách ở những phương diện sau:

Về kinh tế: Thúc đẩy quyền sở hữu tư nhân, kinh tế tư nhân, quyền bình đẳng của tất cả các chủ thể trong hoạt động kinh tế; 

Về văn hóa - xã hội: Tăng cường các hình thức trưng cầu dân ý, phản biện xã hội, tự do báo chí, ngôn luận;

Về bộ máy Nhà nước, cải cách tư pháp: Xây dựng tòa án độc lập và xét xử chỉ tuân theo pháp luật, đảm bảo pháp quyền trong các hoạt động công vụ và dân sinh.

Thứ ba: Động lực từ sự thúc đẩy quyền tiếp cận thông tin và cuộc chiến chống tham nhũng

Trên thế giới, hiện đã có rất nhiều quốc gia ban hành các đạo luật riêng về quyền tiếp cận thông tin. Đạo luật về Tự do báo chí của Thụy Điển được ban hành năm 1766 được nhắc đến như đạo luật đầu tiên của một quốc gia về quyền tiếp cận thông tin. Tính đến nay đã có khoảng 100 quốc gia có Luật tiếp cận thông tin.

Ở Việt Nam, “trách nhiệm giải trình” và “bảo đảm quyền được thông tin” được đặt ra như một phương thức nhằm phòng, chống tham nhũng. Trách nhiệm giải trình trong phòng, chống tham nhũng được thể hiện trong nhiều văn bản khác nhau, trên cả hai phương diện: Trách nhiệm giải trình của cán bộ, công chức, người có trách nhiệm trong thực thi nhiệm vụ, công vụ; và  trách nhiệm giải trình của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Quyền tiếp cận thông tin của công dân được quy định lần đầu tiên tại Điều 69 Hiến pháp năm 1992 với tên gọi là “quyền được thông tin”. Điều 25 Hiến pháp năm 2013 quy định công dân có quyền “tiếp cận thông tin” và việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định. Ngoài ra, trong nhiều văn kiện của Đảng Cộng sản cũng đề cập đến yêu cầu về “bảo đảm quyền được thông tin” của công dân, nhất là trong lĩnh vực phòng, chống tham nhũng. Ví dụ, Nghị quyết Hội nghị lần Thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí đã đặt ra yêu cầu “Nghiên cứu ban hành Luật Bảo đảm quyền được thông tin của công dân”.

Ngày 06/4/2016, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 11 đã thông qua Luật Tiếp cận thông tin (có hiệu lực từ ngày 01/07/2018). Về phạm vi, Luật Tiếp cận thông tin giới hạn trong việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin của công dân, nguyên tắc, trình tự, thủ tục thực hiện quyền tiếp cận thông tin, trách nhiệm, nghĩa vụ của cơ quan nhà nước trong việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân. Việc ghi nhận quyền tiếp cận thông tin và sự ra đời của Luật Tiếp cận thông tin không chỉ nhằm bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của người dân mà còn là một yếu tố thúc đẩy thực hiện trách nhiệm giải trình của Chính phủ, đặc biệt là trước yêu cầu của công tác phòng, chống tham nhũng.

Một số đặc trưng của trách nhiệm giải trình trong quản trị Nhà nước ở Việt Nam

Xét tổng quát, có thể xác định một số đặc trưng chính của trách nhiệm giải trình trong quản trị nhà nước ở Việt Nam như sau:

Thứ nhất: Hệ thống trách nhiệm giải trình về chính trị ở Việt Nam hiện nay đề cao sự tuân thủ và trung thành với Đảng Cộng sản. Điều này xuất phát từ lịch sử hiện đại của Việt Nam, và về mặt pháp lý có cơ sở tại Điều 4 Hiến pháp (từ Hiến pháp 1980, 1992 cho đến 2013), trong đó xác định Đảng Cộng sản là lực lượng chính trị duy nhất lãnh đạo toàn diện cả Nhà nước và xã hội.

Thứ hai: Ở Việt Nam, do Đảng Cộng sản quyết định chính sách nhân sự, tuyển chọn và quyết định về nhân sự chủ chốt của nền công vụ, nên mô hình truyền thống cấp trên quyết định bổ nhiệm, giám sát, đánh giá và thay thế nhân sự cấp dưới không được thực hiện giống như ở nhiều nước khác. Biểu hiện là về mặt pháp lý, Thủ tướng Việt Nam không có toàn quyền chọn Bộ trưởng, Bộ trưởng không có toàn quyền chọn thứ trưởng, thứ trưởng không có toàn quyền chọn vụ trưởng, vì những chức vụ đó trước hết phải được sự đồng ý của cấp uỷ Đảng. 

Mặc dù cách làm trên có những điểm tích cực, song cũng có những hạn chế nhất định, mà một trong những hạn chế đó là đôi khi dẫn tới tình trạng thiếu tuân thủ trong nền công vụ (trên bảo dưới không nghe). Cụ thể, nếu một cán bộ, công chức có sự hậu thuẫn mạnh mẽ từ các thiết chế của Đảng thì họ có thể khiến cho thủ trưởng cơ quan phải nhân nhượng, thậm chí phải chia sẻ quyền lực. Không chỉ vậy, thủ trưởng muốn sa thải được thuộc cấp sẽ phải tuân thủ các quy trình, thủ tục về Đảng. Điều này có thể dẫn tới những trở ngại trong việc thực hiện trách nhiệm giải trình theo chiều dọc.

Ngoài ra, việc Đảng đề cao nguyên tắc lãnh đạo tập thể cũng có thể làm suy giảm trách nhiệm giải trình của cá nhân là lãnh đạo trong khu vực công. Ngược lại, việc này cũng có thể dẫn tới việc cá nhân lãnh đạo đùn đẩy trách nhiệm cho tập thể, né tránh trách nhiệm của cá nhân mình trước những sai sót trong hoạt động công vụ. 

Thứ ba: Để nâng cao hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước, Hiến pháp năm 2013 (Điều 2) lần đầu tiên đã xác định sự giám sát lẫn nhau giữa các cơ quan Nhà nước thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Dù vậy, hiện tại mới chỉ có cơ chế giám sát của Quốc Hội với Chính phủ và TANDTC, Viện KSNDTC là đã được quy định tương đối toàn diện, rõ ràng, các cơ chế giám sát lẫn nhau của Chính phủ với TANDTC, Viện KSNDTC và của Chính phủ và TANDTC, Viện KSNDTC với Quốc Hội vẫn chưa được quy định cụ thể. 

Thứ tư: Về cơ bản, trong nền quản trị công ở Việt Nam hiện nay vẫn đang sử dụng các tiêu chí đánh giá công chức gắn với cơ hội thăng tiến (chức vụ) của họ. Các chỉ tiêu thành tích dùng để đánh giá vẫn là những quy định có tính truyền thống được áp dụng từ thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Hệ thống các chỉ tiêu thành tích này được theo dõi định kỳ hàng năm hoặc theo nhiệm kỳ của cán bộ lãnh đạo. Cách đánh giá này dẫn tới một số vấn đề trong trách nhiệm giải trình ở Việt Nam, mà thường được gọi là bệnh thành tích và tư duy nhiệm kỳ. Cả hai căn bệnh này đều làm suy yếu cách đo lường chất lượng dựa trên các tiêu chí kết quả đầu ra và ảnh hưởng dài hạn của nền hành chính công.

Từ góc độ trách nhiệm giải trình về chính trị và hành chính, cần chuyển đổi cách đánh giá sang dựa trên kết quả đầu ra (outputs) và trị số ảnh hưởng (impacts). Tuy nhiên, hiện tại, việc chuyển đổi này diễn ra rất chậm.

Phương thức và nội dung của trách nhiệm giải trình trong quản trị Nhà nước ở Việt Nam 

Theo nghĩa chung nhất, trách nhiệm giải trình không chỉ là trách nhiệm của Nhà nước trước xã hội mà còn là trách nhiệm của chủ thể quản lý với đối tượng thụ hưởng, chịu sự quản lý nói chung. Trong quản trị công, trách nhiệm giải trình được hiểu trên hai bình diện: Trách nhiệm giải trình của Nhà nước nói chung; Trách nhiệm giải trình của cán  bộ, công chức, người có thẩm quyền thực thi nhiệm vụ, công vụ. Với ý nghĩa như vậy, trách nhiệm giải trình được thực hiện bằng nhiều phương thức đa dạng.

Từ góc độ bảo đảm quyền được thông tin của người dân nói chung, trách nhiệm giải trình gắn liền với trách nhiệm thông tin đến đối tượng thụ hưởng, chịu sự quản lý và được thể hiện bằng hai hình thức là giải trình chủ động và giải trình bị động.

Giải trình chủ động là các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân chủ động thông tin, chủ động công khai nội dung hoạt động của mình. 

Giải trình bị động là việc các cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp thông tin theo yêu cầu của các chủ thể có liên quan.

Để giải trình về hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị thì phải sử dụng các hình thức công khai thông tin. Theo Khoản 1, Điều 12, Luật phòng, chống tham nhũng của Việt Nam quy định bảy hình thức công khai hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị, nhưng có thể phân thành hai nhóm. Nhóm các hình thức chủ động công khai bao gồm sáu hình thức: công bố tại cuộc họp của cơ quan, tổ chức, đơn vị; niêm yết tại trụ sở làm việc; thông báo bằng văn bản đến cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có liên quan; phát hành ấn phẩm; thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng; đưa lên trang thông tin điện tử. Hình thức công khai bị động là hình thức cung cấp thông tin theo yêu cầu của cơ quan, tổ chức, cá nhân.

Trên bình diện rộng, trách nhiệm giải trình là trách nhiệm bảo đảm công khai, minh bạch của cả bộ máy Nhà nước. Nhiều văn bản pháp luật của các nước trên thế giới và ở Việt Nam 

Chính quyền thực hiện trách nhiệm giải trình thông qua các cơ chế giải trình yêu cầu đội ngũ cán bộ, công chức chịu trách nhiệm diễn giải về quyết sách, hành động của mình trước các cá nhân, tổ chức bên trong và bên ngoài bộ máy chính quyền; đồng thời chịu trách nhiệm trước mọi quyết định của mình khi thực thi công vụ, chịu trách nhiệm trước pháp luật. Một chính quyền có trách nhiệm giải trình cao là khi cán bộ công quyền cởi mở và minh bạch khi người dân thực hiện giám sát, hay khi được các cơ quan có thẩm quyền của nhà nước thanh, kiểm tra. Cả hai quy trình giải trình và giám sát cùng song hành trong hệ thống quản trị, và được củng cố bằng nền tảng của công khai, minh bạch và tiếp cận thông tin. Giải trình và giám sát phải dựa trên nguyên tắc công khai, minh bạch và cơ hội được tiếp cận thông tin của các tổ chức, cá nhân tham gia giám sát. Tuy nhiên, nhiều chi tiết về những nội dung phải công khai, minh bạch trong dự án luật hiện nay. Về công khai minh bạch đều đã được quy định trong các văn bản pháp luật khác, trong đó có Pháp lệnh Thực hiện dân chủ xã, phường, thị trấn và Luật Phòng, chống tham nhũng. 

Thực trạng trách nhiệm giải trình trong quản trị Nhà nước ở Việt Nam hiện nay

Trách nhiệm giải trình về chính trị

Ở Việt Nam, về mặt chính trị, cá nhân, tổ chức ở bất kỳ cấp nào trong nền công vụ đều phải chấp hành sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tiêu chí để đánh giá trách nhiệm giải trình trước Đảng là sự tuân thủ sự phân công của tổ chức Đảng, là sự chấp hành đường lối và chính sách của Đảng. Về nguyên lý, cơ chế vận hành của kênh trách nhiệm giải trình về chính trị này khá đơn giản: hành vi tuân thủ được khuyến khích, mọi hành vi bất tuân có thể dẫn tới chế tài, từ kỷ luật Đảng có thể dẫn tới những chế tài hành chính, pháp lý khác. Một hệ thống kiểm tra của Đảng được thiết lập, từ Ủy ban Kiểm tra Trung ương, cho tới Ủy ban kiểm tra các Đảng bộ, Tỉnh ủy, Đảng ủy cơ sở. Từ năm 2013, một hệ thống các cơ quan nội chính của Đảng cũng được thiết lập từ Trung ương tới địa phương, trong đó có chức năng giám sát sự tuân thủ, đấu tranh chống tham nhũng.

Tuy nhiên, vì Đảng chịu trách nhiệm trước nhân dân, để giữ được sự lãnh đạo của mình, để đo lường trách nhiệm chính trị, ở Việt Nam cũng xuất hiện những tiêu chí đánh giá nhiệm vụ chính trị gắn liền với đo lường kết quả đầu ra (outcomes) hoặc trị số ảnh hưởng (impacts) của công chức, cán bộ lãnh đạo trong lĩnh vực được ủy quyền quản lý. Nói cách khác, trong trách nhiệm chính trị, ngoài sự trung thành với Đảng, các cán bộ lãnh đạo trong nền hành chính công hiện nay cũng phải lấy kết cục đầu ra và ảnh hưởng chính sách đối với nhân dân làm thước đo.

Về cách thực hiện trách nhiệm giải trình về chính trị, ngoài hệ thống kiểm tra và đánh giá nội bộ của Đảng, lãnh đạo nền công vụ, nhất là các thành viên Chính phủ và người giữ chức vụ do cơ quan dân cử bầu, phải chịu trách nhiệm trước cơ quan dân cử. Các kênh đánh giá trách nhiệm dựa trên thông tin, báo cáo định kỳ, chịu sự giám sát của cơ quan dân cử, giám sát của tổ chức xã hội. Ở các cấp chính quyền, lãnh đạo các tổ chức Đảng thường chỉ đạo triển khai các kênh phi chính thức để thăm dò dư luận, ví dụ tiến hành lấy phiếu tín nhiệm, đánh giá cán bộ lãnh đạo. 

Trách nhiệm giải trình về hành chính

Khác với khía cạnh chính trị, trách nhiệm giải trình về hành chính nhấn mạnh tới sự tuân thủ chuẩn mực và quy trình trong nội bộ nền công vụ. Chi tiết hơn, trách nhiệm giải trình về mặt hành chính gồm hai loại: 

Trách nhiệm theo chiều dọc (giữa thuộc cấp với thủ trưởng, giữa cấp dưới với cấp trên); Trách nhiệm theo chiều ngang (giữa cá nhân/tổ chức với các đơn vị khác có chức năng thanh tra, giám sát). Vi phạm trách nhiệm giải trình về hành chính có thể dẫn tới chế tài hành chính (thăng giáng chức vụ, kỷ luật, di chuyển nhiệm sở) hoặc chế tài pháp lý (kỷ luật, buộc thôi việc, đền bù thiệt hại, thậm chí truy cứu trách nhiệm hình sự).

Công chức có nghĩa vụ trung thành với quốc gia, có nghĩa vụ tiến hành công vụ một cách cẩn trọng, bảo mật, sử dụng tiết kiệm nguồn lực công, tuân thủ chuẩn mực đạo đức ứng xử với người dân, đồng nghiệp, cấp trên, nhân viên dưới quyền. Để đảm bảo thực hiện trách nhiệm giải trình về hành chính, cơ chế nội bộ bao gồm kiểm tra và giám sát của thủ trưởng đối với nhân viên thuộc cấp, của cơ quan cấp trên đối với cá nhân, tổ chức cấp dưới. Các biện pháp kiểm soát nội bộ này thuộc chức năng quản lý của cơ quan chủ quản, thường rất tổng quát, bao gồm: quyết định thành lập, điều chỉnh hoặc giải thể đơn vị cấp dưới, phê duyệt chức năng, nhiệm vụ của cấp dưới, phê chuẩn các đề nghị của cấp dưới, kiểm soát các nguồn lực (tài chính, vật chất, con người), báo cáo định kỳ, kiểm tra và đánh giá định kỳ. Đây là khái niệm cơ chế chủ quản rất phổ biến ở Việt Nam.

Trách nhiệm giải trình về hành chính theo chiều ngang là trách nhiệm đối với các cơ quan có chức năng giám sát bên ngoài, ví dụ: trước Thanh tra Chính phủ và hệ thống cơ quan thanh tra công vụ ngành, địa phương; trách nhiệm trước các cơ quan giám sát có tính chất nội bộ; trách nhiệm trước sự giám sát của Kiểm toán Nhà nước, giám sát của hệ thống tòa án, cũng như trách nhiệm giải trình với xã hội và người dân (là người chủ và cũng là khách hàng thụ hưởng dịch vụ của hành chính công). Hiện nay, trách nhiệm giải trình theo chiều ngang tuân theo pháp luật chuyên ngành, ví dụ: Luật Tiếp công dân, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, Luật Giám sát của Quốc hội, Luật Kiểm toán, Luật Báo chí, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đạo luật tố tụng bảo đảm tốt quyền của người dân trước các cơ quan tư pháp. Người dân ở đây trước hết là những khách hàng cụ thể của dịch vụ hành chính công.

Trách nhiệm giải trình về nghề nghiệp

Ngoài hai loại trách nhiệm chính trị và trách nhiệm hành chính, như đã phân tích ở trên, công chức Việt Nam phải tuân thủ trách nhiệm giải trình về nghề nghiệp. Bởi lẽ, công chức trong nền hành chính công thường cũng hoạt động theo nghề nghiệp chuyên môn. Ví dụ: cảnh sát, quân nhân trong các lực lượng vũ trang, luật gia trong các cơ quan hành pháp, lập pháp hoặc tư pháp, nhà giáo dục trong quản lý nhà nước về đào tạo, chuyên gia kinh tế, xây dựng, y dược, thẩm định viên trong các ngành dọc có chức năng quản lý và điều tiết Nhà nước. Hành vi hành chính thường cũng là hành vi chuyên môn, cần được giám sát bằng chuẩn mực chuyên môn của người trong nghề. Nếu không có chuẩn mực nghề nghiệp chuyên môn, đôi khi rất khó xác định trách nhiệm giải trình trong nền hành chính công.

Trách nhiệm giải trình trước xã hội

Không chỉ chịu trách nhiệm với cấp trên theo quan hệ chiều dọc, với các cơ quan chiều ngang có chức năng thanh tra công vụ, kiểm toán, giám sát và với người dân như khách hàng, công chức và đơn vị hành chính ở Việt Nam còn có trách nhiệm giải trình với tất cả các bên liên đới, với toàn thể xã hội và công chúng. Đó chính là trách nhiệm giải trình của công chức và đơn vị hành chính đối với xã hội.

Loại trách nhiệm này đã xuất hiện ở Việt Nam vì hai lý do: Một là, nhân dân và toàn thể xã hội ngày càng trở thành một lực lượng biết đòi hỏi, truy tìm trách nhiệm của nền công vụ, chứ không chỉ là đối tượng quản lý. Vì lẽ đó, nền hành chính bị truy xét, bị đặt trước áp lực ngày càng phải minh bạch hóa; Hai là, mọi chính sách công thường chỉ có thể được thực hiện hiệu quả, nếu có sự chia sẻ và ủng hộ của dân chúng. Nói cách khác, công vụ muốn thực hiện được nhiệm vụ một cách hiệu quả tất yếu phải dựa vào sự hậu thuẫn của toàn thể xã hội. Lịch sử nền công vụ Việt Nam không thiếu minh chứng cho nhận định này. Ngày nay, không có sự tham gia tích cực của xã hội, thì các nhiệm vụ y tế công đồng, phổ cập giáo dục, bảo vệ môi trường không thể thành công.

Cách trả lời xã hội, chịu trách nhiệm giải trình trước xã hội được thực hiện tùy theo hoàn cảnh của các địa phương, các ngành, thậm chí tùy thuộc vào phong cách lãnh đạo khác nhau của các chính khách. 

Trách nhiệm giải trình trước xã hội đã được thực hiện ở Việt Nam bằng nhiều cơ chế, thí dụ tham vấn người dân và dư luận xã hội trước khi quyết định các chính sách và hành vi hành chính, hoặc lắng nghe ý kiến của người dân trong giải quyết khiếu nại tố cáo sau khi quyết định hành chính đã hoặc đang được thực thi. Ngoài các kênh dân chủ đại diện, trách nhiệm giải trình trước xã hội cũng được thực hiện qua các kênh dân chủ trực tiếp, tổ chức tiếp dân, lấy ý kiến nhân dân trực tiếp. Mỗi khi có xếp hạng hoặc đánh giá chất lượng hành chính, ví dụ qua các chỉ số PCI hoặc PAPI, người đứng đầu nền hành chính công có liên quan, nhiều hay ít, đều phải có trách nhiệm giải trình trước công chúng địa phương hoặc khu vực, ngành nghề do tổ chức này quản lý.

Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong thực hiện trách nhiệm giải trình trong quản trị Nhà nước ở Việt Nam hiện nay

Những hạn chế nêu trên xuất phát từ các nguyên nhân khác nhau. Bên cạnh nguyên nhân từ một số quy định pháp luật thì còn có các nguyên nhân khác như: Văn hóa cá nhân của người Việt tương đối mờ nhạt, sự tham gia của người dân được đề cập nhiều song chưa thực chất; Chưa chú trọng đạo đức nghề nghiệp của công chức (mặc dù theo truyền thống Á Đông; Đạo đức là thước đo của người làm công vụ); Sự phản biện của truyền thông và xã hội dân sự còn thiếu và yếu. Cụ thể được phân tích dưới đây:

Thứ nhất, văn hóa cá nhân mờ nhạt

Việt Nam có điểm xếp loại văn hóa cá nhân ở mức thấp. Việt Nam được đánh giá là một xã hội tập thể chủ nghĩa, đạt 20 điểm trong xếp loại văn hóa cá nhân. Đặc trưng của xã hội tập thể là tính cam kết lâu dài với “thành viên” của nhóm, như gia đình, gia đình mở rộng hoặc các mối quan hệ mở rộng. Lòng trung thành trong một nền văn hóa tập thể là tối quan trọng và vượt qua hầu hết các quy tắc xã hội và quy định khác. Như một xã hội thúc đẩy mối quan hệ mạnh mẽ, nơi mà tất cả mọi người chịu trách nhiệm cho các thành viên trong nhóm của họ. 

Văn hóa cá nhân thấp là một rào cản đối với việc thực hiện trách nhiệm giải trình ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, khả năng cải thiện điều kiện này trong tương lai ở Việt Nam là khá triển vọng bởi quá trình tương tác và tiếp biến văn hóa ở Việt Nam diễn biến sôi động cùng với quá trình giao thương kinh tế, trong đó chủ nghĩa cá nhân, đề cao tiếng nói cá nhân trong tập thể, tôn trọng cá tính của mỗi người, đề cao trách nhiệm của người đứng đầu trong quản lý, điều hành. 

Thứ hai, sự tham gia của người dân chưa thực chất

Trước đây, Việt Nam chủ yếu chú trọng đến hình thức tham gia của người dân thông qua việc bầu cử, cử đại diện. Tuy nhiên, hiện nay sự tham gia trực tiếp của người dân bắt đầu được chú trọng hơn. Sự tham gia của người dân trên nhiều lĩnh vực quản lý như tham gia xây dựng chính sách, là việc đưa ra những ý kiến đề xuất, góp ý, phản biện cho các chính sách kinh tế và xã hội để những nhà hoạch định chính sách đưa ra những chính sách phù hợp, minh bạch và hiệu quả hơn. Ở địa phương, người dân bắt đầu tích cực hơn trong việc nắm bắt thông tin (dân biết), tham gia thảo luận (dân bàn), triển khai (dân làm), kiểm tra, giám sát (dân kiểm tra) các chủ trương, biện pháp quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. Tuy nhiên, sự tham gia này phần nhiều là tự phát, đến từ sáng kiến hoặc đòi hỏi trong dân mà không phải từ chính sách tham vấn của chính quyền.

Thứ ba, chưa chú trọng đạo đức nghề nghiệp của công chức

Trách nhiệm nghề nghiệp, được đo lường bằng các chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, có thể bổ sung, hỗ trợ, nhằm thiết lập rõ ràng hơn trách nhiệm giải trình trong nền hành chính công. Hành vi hành chính thường cũng là hành vi có tính chuyên môn, sự tuân thủ quy trình và chuẩn mực hành chính là cần nhưng chưa đủ, người công chức còn phải tuân thủ các chuẩn mực nghề nghiệp trong hoạt động công vụ có tính chuyên môn của mình. Tuy nhiên, đạo đức nghề nghiệp không tự nhiên mà có. Ngược lại, nó cần được dung dưỡng bởi các hội nghề nghiệp độc lập, đề cao sự cẩn trọng, trung thực, sự thật khách quan mang tính chuyên môn. Trong trường hợp có xung đột giữa các lợi ích chính trị, hành chính và chuyên môn, các hiệp hội nghề nghiệp phải được tự do, bày tỏ quan điểm và kết luận có tính phản biện của các nhà chuyên môn. Trong một môi trường như vậy, trách nhiệm giải trình về nghề nghiệp bị hạn chế, hoàn toàn lép vế trước trách nhiệm giải trình về chính trị và hành chính.

Thứ tư, sự phản biện của truyền thông và các tổ chức xã hội chưa bền vững

Nền công vụ Việt Nam hiện hành phải chấp nhận sức ép phản biện ngày càng gia tăng của xã hội, của giới báo chí và truyền thông, điều đó hiển nhiên là một thành tựu không thể phủ nhận của quá trình cởi mở, dân chủ hóa đất nước. Tuy nhiên, thành tựu này chưa bền vững. Các nền móng pháp lý đảm bảo tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do xuất bản, tự do lập hội và bày tỏ quan điểm, nhất là các phản biện chính sách một cách công khai, cơ hội tham gia trưng cầu dân ý và các hình thức dân chủ trực tiếp khác vẫn chưa chắc chắn. Nền công vụ vẫn giữ quyền can thiệp rộng rãi và chưa minh bạch đối với hoạt động báo chí, truyền thông và xã hội dân sự.

Kết luận

Việt Nam đã có quan tâm và có những nỗ lực xây dựng, thực hiện khung chính sách, pháp luật về trách nhiệm giải trình trong hệ thống pháp luật, với mục tiêu đầu tiên là để thúc đẩy hoạt động phòng, chống tham nhũng, sau đó là nâng cao hiệu lực, hiệu quả của bộ máy công quyền. Các quy định pháp luật về vấn đề này hiện chủ yếu tập trung ở các văn bản pháp luật về phòng, chống tham nhũng, song cũng được đề cập trong nhiều văn kiện, văn bản khác của Đảng và Nhà nước.

Vấn đề trách nhiệm giải trình cũng đã được thực hiện trong thực tế, và đã mang lại những kết quả nhất định. Mặc dù vậy, xét chung, cả khung chính sách, pháp luật và việc thực thi chính sách, pháp luật về trách nhiệm giải trình ở Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế.

Luật PCTN năm 2018 và Nghị định số 59 hướng dẫn thi hành Luật này được ban hành hứa hẹn khả năng thúc đẩy trách nhiệm giải trình của các cơ quan công quyền và đội ngũ cán bộ, công chức, qua đó góp phần ngăn chặn các hành vi tham nhũng. Dù vậy,  việc thực hiện các quy định về trách nhiệm giải trình trong hai văn bản pháp luật này đòi hỏi những nỗ lực về nhiều mặt, trong đó bao gồm việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục nâng cao nhận thức của các chủ thể có liên quan; tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát và xử lý kịp thời, nghiêm minh những hành vi vi phạm... Trong số những yêu cầu đó, đầu tiên cần thay đổi nhận thức, ý thức của những người nắm giữ và thực thi quyền lực công về trách nhiệm giải trình trước công chúng, cũng như nhận thức, ý thức của các doanh nghiệp và người dân về quyền yêu cầu trách nhiệm giải trình của các cơ quan công quyền.

Nguyễn Quang Đức - Vũ Công Giao

Theo Tạp chí Tri thức Xanh - Số: 04 - 20

Bình luận: 0