TẠP CHÍ TRI THỨC XANH - CƠ QUAN LÝ LUẬN CỦA VIỆN KHOA HỌC MÔI TRƯỜNG VÀ XÃ HỘI

E-mail:info@ttxonline.vn -  Hotline: 0948565689
chủ nhật, 22/12/2024

Những điểm mới tại dự thảo Luật sử đổi, bổ sung một số điều của Luật Công đoàn (Kỳ 1)

13:13 03/03/2022
Logo header Luật Công đoàn 2012 là cơ sở pháp lý quan trọng cho Công đoàn Việt Nam tổ chức thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình, đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế, ổn định chính trị - xã hội của đất nước; phát huy vai trò, tác dụng và ảnh hưởng rộng lớn trong đời sống chính trị - xã hội. Sau hơn 7 năm áp dụng, thực thi Luật Công đoàn đã phát sinh một số vướng mắc, bất cập từ thực tiễn đặt ra yêu cầu đòi hỏi cần tiếp tục sửa đổi hoàn thiện nhằm đảm bảo sự thống nhất của hệ thống pháp luật và hội nhập kinh tế quốc tế.

Sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay cùng với sự phát triển, ra đời ngày càng nhiều doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế nhà nước và tư nhân đã góp phần giải quyết vấn đề việc làm của người lao động có trình độ và tay nghề khác nhau. Tuy nhiên, đi cùng với sự phát triển của nền kinh tế và nhu cầu của nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp và tập đoàn trong và ngoài nước đã nảy sinh những mâu thuẫn về quyền lợi và nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ lao động. Do đó, Công đoàn hình thành nhằm thực hiện vai trò góp phần điều hòa và ổn định quan hệ lao động xã hội.

Để khẳng định vị trí, vai trò của tổ chức công đoàn trong việc bảo vệ quyền và lợi ích của người lao động, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật như: Hiến pháp 2013; Luật Công đoàn 2012; Bộ Luật Lao động 2019...Có thể nói, hệ thống văn bản pháp luật này đã tạo hành lang pháp lý cho tổ chức công đoàn thực hiện chức năng của mình.

Luật Công đoàn 2012 đã thể chế hóa mạnh mẽ các quan điểm, đường lối của Đảng về hoàn thiện, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, là cơ sở pháp lý hết sức quan trọng về tổ chức và hoạt động cho tổ chức Công đoàn thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, xây dựng tổ chức Công đoàn ngày càng vững mạnh, giữ vững ổn định chính trị - xã hội của đất nước trong thời gian qua. Tuy nhiên, do Hiến pháp năm 2013 được ban hành sau khi Luật Công đoàn đã được thông qua nên có những nội dung của Luật Công đoàn chưa hoàn toàn tương thích với Hiến pháp. Bên cạnh đó, những năm gần đây, Quốc hội đã ban hành nhiều luật mới có nội dung liên quan đến quyền và lợi ích của người lao động và tổ chức Công đoàn, đặc biệt là việc sửa đổi bổ sung Bộ Luật Lao động đặt ra vấn đề phải sửa đổi Luật Công đoàn để bảo đảm tương thích, đồng bộ trong các văn bản pháp luật. Việc Việt Nam ký kết, phê chuẩn và tham gia các FTA thế hệ mới trong thời gian gần đây cũng đặt ra yêu cầu cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung các điều luật để bảo đảm sự tương thích với các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản, cam kết của Việt Nam trong phê chuẩn các điều ước quốc tế, các FTA thế hệ mới mà chúng ta tham gia và phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, thể chế chính trị của Việt Nam.

1. Sự cần thiết ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công đoàn:

Luật Công đoàn số 12/2012/QH13 được Quốc hội khoá XIII thông qua ngày 20/6/2012 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2013. Luật Công đoàn đã thể chế hoá các quan điểm, đường lối của Đảng về hoàn thiện, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, là cơ sở pháp lý quan trọng đáp ứng về tổ chức và hoạt động cho tổ chức Công đoàn thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, góp phần giữ vững ổn định chính trị xã hội của đất nước trong thời gian qua.

Tuy nhiên, sau hơn 8 năm triển khai thực hiện trên thực tế đã xuất hiện các yêu cầu đòi hỏi Luật Công đoàn cần phải được tiếp tục sửa đổi:

- Xuất phát từ yêu cầu khắc phục một số hạn chế, bất cập của Luật Công đoàn, đáp ứng hoạt động của tổ chức Công đoàn trong thời kỳ mới:

Luật Công đoàn hiện hành đã tạo hành lang pháp lý quan trọng cho Công đoàn Việt Nam tổ chức thực hiện các chức năng, nhiệm vụ theo luật định, đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế, ổn định chính trị, xã hội của đất nước, phát huy vai trò, tác dụng và ảnh hưởng rộng lớn của tổ chức công đoàn trong xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, Luật Công đoàn cũng bộc lộ những hạn chế, bất cập trước yêu cầu tình hình mới:

(1) Đối tượng, phạm vi điều chỉnh còn hẹp so với sự phát triển nhanh, đa dạng của lực lượng lao động và yêu cầu nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức Công đoàn.

(2) Hệ thống tổ chức, việc phân công, phân cấp, phân quyền giữa cấp ủy, địa phương với tổ chức Công đoàn về công tác tổ chức, cán bộ chưa thật rõ, còn chồng chéo, trùng lắp và chưa hợp lý.

(3) Cơ chế bảo đảm thực thi quyền công đoàn cũng như cơ chế bảo vệ cán bộ Công đoàn chưa đầy đủ và cụ thể, tính khả thi không cao. Trong khi đó việc tổ chức thực hiện chức năng, nhiệm vụ của tổ chức Công đoàn còn dàn trải, chưa tập trung vào nhiệm vụ trọng tâm của tổ chức Công đoàn là đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động, nên vai trò của tổ chức Công đoàn ở nhiều nơi còn mờ nhạt.

- Yêu cầu từ việc thể chế hóa Hiến pháp năm 2013, các chủ trương, nghị quyết của Đảng và bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật

Do Luật Công đoàn được ban hành trước khi Hiến pháp năm 2013 được thông qua, nên có những nội dung của Luật Công đoàn chưa hoàn toàn tương thích với Hiến pháp. Sau Đại hội XII của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương ban hành nhiều nghị quyết chuyên đề liên quan đến tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị, và hội nhập quốc tế sâu rộng. Bên cạnh đó, trong những năm gần đây Quốc hội đã ban hành nhiều luật mới có nội dung liên quan đến quyền và lợi ích của người lao động và tổ chức công đoàn như: Luật Việc làm (năm 2013), Luật Bảo hiểm xã hội (năm 2014), Luật Doanh nghiệp (năm 2014), Luật An toàn, vệ sinh lao động (năm 2015), Bộ luật Tố tụng dân sự (năm 2015)... Đặc biệt, Bộ luật Lao động vừa được Quốc hội thông qua tháng 11/2019, trong đó có nhiều nội dung mới về quan hệ lao động, về quyền công đoàn tại doanh nghiệp khác biệt so với các quy định của Luật Công đoàn.

Do đó, Luật Công đoàn cần tiếp tục được sửa đổi nhằm đảm bảo sự thống nhất, sự phù hợp với nội dung của các luật mới ban hành gần đây.

- Yêu cầu từ hội nhập kinh tế quốc tế

Hội nhập kinh tế quốc tế là một xu hướng tất yếu, đã trở thành một trong những động lực quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội, tạo thêm nhiều việc làm, nâng cao dân trí và cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.

Việt Nam đã phê chuẩn Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) và Công ước số 98 của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO). Cam kết về lao động trong các Hiệp định này yêu cầu các quốc gia thành viên có nghĩa vụ tuân thủ thực hiện các nguyên tắc và quyền cơ bản trong lao động của người lao động theo Tuyên bố năm 1998 của Tổ chức lao động quốc tế (ILO). Những cam kết trong các hiệp định thương mại tự do nêu trên, đã đặt ra yêu cầu rà soát và hoàn thiện khung pháp lý điều chỉnh các quan hệ xã hội, đặc biệt về quan hệ lao động và “nội luật hóa theo lộ trình phù hợp những điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, trước hết là luật pháp về thương mại, đầu tư, sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ, lao động - công đoàn”.

Do vậy, Luật Công đoàn cần phải tiếp tục sửa đổi, bổ sung để bảo đảm sự tương thích với các tiêu chuẩn lao động quốc tế, cam kết của Việt Nam trong các FTA thế hệ mới phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội và thể chế chính trị của Việt Nam. 

2. Những điểm mới của Dự thảo Luật:

2.1. Hoàn thiện quy định về địa vị pháp lý của Công đoàn Việt Nam

Điều 1, Luật Công đoàn 2012 quy định về địa vị pháp lý của Công đoàn Việt Nam: Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và của người lao động, được thành lập trên cơ sở tự nguyện, là thành viên trong hệ thống chính trị của xã hội Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; đại diện cho cán bộ, công chức, viên chức, công nhân và những người lao động khác (sau đây gọi chung là người lao động), cùng với cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động; tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội, tham gia thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp; tuyên truyền, vận động người lao động học tập nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.

Đây là quy định đặc biệt quan trọng trong Luật Công đoàn, tạo cơ sở cho việc quy định cụ thể các quyền và trách nhiệm theo lĩnh vực hoạt động của Công đoàn tại các chương tiếp theo, tạo hành lang pháp lý cho Công đoàn thực hiện tốt các chức năng luật định. Về cơ bản, quy định trên đã tương thích và khá thống nhất với các quy định của Hiến pháp, đặc biệt là tương thích với quy tại Điều 9, Điều 10 Hiến pháp năm 2013.

Tuy nhiên, do quy định này được soạn thảo, ban hành trước khi Hiến pháp năm 2013 được ban hành, nên vẫn còn một số chỗ chưa hoàn toàn thống nhất với quy định của Hiến pháp. Trong quá trình triển khai thực hiện đã có nhiều ý kiến đề xuất sửa đổi theo hướng: cần làm mềm hóa, không nhất thiết phải quy định Công đoàn “là thành viên trong hệ thống chính trị của xã hội Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam”; đồng thời điều chỉnh về kỹ thuật pháp lý tại Điều 1 của Luật Công đoàn để tương thích với Hiến pháp năm 2013. Do đó, để phù hợp với tiêu chuẩn lao động quốc tế về tự do công đoàn và thuận lợi hơn trong quan hệ hợp tác của Công đoàn Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và tương thích, đồng bộ, thống nhất với Hiến pháp năm 2013 (Điều 10), Dự thảo Luật đã sửa đổi quy định trên thành:

“Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và của người lao động, được thành lập trên cơ sở tự nguyện, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; đại diện cho công nhân, lao động, cán bộ, công chức, viên chức (sau đây gọi chung là người lao động); chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động; tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội, tham gia kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp về những vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người lao động; tuyên truyền, vận động người lao động học tập nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.”

2.2. Hoàn thiện quy định về tổ chức bộ máy Công đoàn và cơ chế quản lý cán bộ công đoàn:

Điều 6, Luật Công đoàn 2012 quy định về nguyên tắc tổ chức và hoạt động công đoàn như sau:

“1.Công đoàn được thành lập trên cơ sở tự nguyện, tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ.

2. Công đoàn được tổ chức và hoạt động theo Điều lệ Công đoàn Việt Nam, phù hợp với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước”.

Tuy nhiên, qua quá trình thực hiện cho thấy việc quản lý, phân bổ, bố trí biên chế cán bộ công đoàn theo các quy định hiện nay của Đảng và các quy định pháp luật đã bộc lộ một số điểm chưa phù hợp, cụ thể:

Thứ nhất, cơ chế cấp ủy địa phương giao biên chế cho tổ chức Công đoàn địa phương trong gói biên chế được cấp trên giao cho khối Đảng, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể chính trị - xã hội dẫn đến sự không đồng bộ về biên chế trong cùng một cấp công đoàn. Ví dụ, hai địa phương có điều kiện địa lý, điều kiện kinh tế - xã hội giống nhau nhưng do hai cấp ủy khác nhau quyết định giao biên chế nên số lượng biên chế cán bộ công đoàn của hai địa phương có thể khác nhau. Hoặc căn cứ để Trung ương giao biên chế cho các địa phương hiện nay chủ yếu căn cứ vào số dân và số lượng đảng viên trên địa bàn, trong khi số lượng cán bộ công đoàn được bố trí cần dựa vào số cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trên địa bàn và xu hướng phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Thực tế cho thấy, không phải địa bàn có đông dân cư và nhiều đảng viên thì đương nhiên có nhiều công nhân, viên chức, lao động. Ví dụ, tỉnh Thanh Hóa và tỉnh Nghệ An có số dân và đảng viên nhiều hơn tỉnh Bình Dương và tỉnh Đồng Nai, nhưng số lượng công nhân, lao động lại ít hơn nhiều. Bên cạnh đó, việc phân bổ biên chế không đồng bộ với việc đảm bảo nguồn tài chính; tình trạng không điều tiết được từ nơi thừa sang nơi thiếu trong phạm vi cả nước cũng như trong phạm vi của tỉnh, thành phố… cũng là vấn đề bất cập trong quản lý biên chế cán bộ công đoàn hiện nay.

Thứ hai, các quy định về cán bộ công đoàn còn chưa rõ ràng, chưa phân biệt rõ giữa cán bộ công đoàn là công chức trong các cơ quan chuyên trách công đoàn các cấp với cán bộ công đoàn chuyên trách trong các doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp ngoài công lập. Trên thực tế hiện nay, ngoài số lượng cán bộ công đoàn đang làm việc trong các cơ quan chuyên trách công đoàn các cấp được xác định là công chức theo Luật Cán bộ công chức… thì có một số lượng không nhỏ cán bộ công đoàn đang làm việc chuyên trách trong các tổ chức công đoàn trong các doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp ngoài công lập. Các đối tượng này hiện nay chưa được định danh rõ ràng nên việc tuyển dụng, sử dụng và thực hiện chế độ chính sách đối với cán bộ có nhiều khó khăn, vướng mắc.

Trường hợp xác định cán bộ công đoàn chuyên trách trong các doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp ngoài công lập là công chức như những cán bộ công đoàn làm việc trong các cơ quan chuyên trách công đoàn các cấp thì rất khó khăn vì các quy định về quản lý biên chế, quản lý cán bộ theo pháp luật về cán bộ công chức hết sức chặt chẽ trong khi môi trường doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp ngoài công lập hết sức năng động, linh hoạt và ngày càng tăng thêm theo sự phát triển mạnh mẽ của các thành phần kinh tế ngoài khu vực nhà nước.

Từ những phân tích trên đây cho thấy, việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy và cán bộ công đoàn trong giai đoạn hiện nay là hết sức cần thiết. Trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, để phù hợp với thông lệ quốc tế, ngoài các quy định về tổ chức và cán bộ của Công đoàn được quy định trong các văn bản của Đảng, Điều lệ của Công đoàn, đòi hỏi phải được luật hóa, đưa vào nội dung đề xuất sửa đổi Luật Công đoàn những vấn đề có tính nguyên tắc, định hướng.

Dự thảo đã Sửa đổi, bổ sung Điều 23 về Bảo đảm về tổ chức, cán bộ theo hướng: “...Cơ quan có thẩm quyền quyết định số lượng cán bộ công đoàn là cán bộ, công chức, viên chức theo đề xuất của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.Công đoàn cấp trên quyết định số lượng cán bộ công đoàn chuyên trách khác sau khi trao đổi với người sử dụng lao động...”

Đồng thời, quy định cụ thể hơn hệ thống tổ chức của Công đoàn Việt Nam tại Điều 7. Hệ thống tổ chức của Công đoàn Việt Nam theo hướng: “Công đoàn Việt Nam là tổ chức thống nhất được tổ chức theo địa giới hành chính và theo ngành, bao gồm: Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam là cấp trung ương; cấp tỉnh, ngành trung ương; cấp trên trực tiếp cơ sở và cấp cơ sở. Điều lệ Công đoàn Việt Nam quy định cụ thể từng cấp công đoàn”.

Việc sửa đổi, bổ sung các quy định tại Dự thảo nhằm mục tiêu tăng cường tính chủ động và độc lập cho tổ chức Công đoàn trong việc chỉ đạo triển khai các hoạt động công đoàn và đào tạo, quy hoạch, bố trí và sử dụng có hiệu quả đội ngũ cán bộ công đoàn nói chung, nâng cao hiệu quả hoạt động công đoàn, chăm lo tốt hơn cho đoàn viên, người lao động.

Phạm Long

Theo Tạp chí Tri thức Xanh số 158 - 02/2022

Bình luận: 0